PHÉP LẠ THÁNH THỂ (I)


Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt

BÁNH THÁNH THỂ ĐỨC CHÚA GIÊSU KITÔ

Câu chuyện xảy ra tại vùng đất mang tên Trung Hoa Lục Địa ngay sau khi đảng cộng sản vô thần lên nắm quyền. Nhà nước ra lệnh càn quét bách hại các tín hữu Kitô, đặc biệt là Công Giáo. Nơi trường tiểu học của một họ đạo, Chị Euphrasie - Nữ Tu thừa sai người Pháp - dạy giáo lý cho một nhóm trẻ người Hoa chuẩn bị xưng tội và rước lễ lần đầu.

Trước khi bắt đầu buổi học giáo lý, tất cả các trẻ cùng đứng nghiêm trang khoanh tay lại và đọc Kinh Lạy Cha. Trong nhóm trẻ, có một bé gái tên Li. Bé thầm nghĩ: ”Có lẽ đây là lần cuối cùng mình còn được tự do đọc kinh to tiếng như thế này! Đâu có ai biết trước được tương lai rồi sẽ ra sao .. Đây đó nghe thì thầm những cuộc bách hại khủng khiếp! Chúa ơi!” Nghĩ thế nên bé Li chú tâm đọc rõ từng tiếng: ”Lạy Cha chúng con ở trên trời. Chúng con nguyện danh Cha cả sáng .. Xin Cha cho chúng con hôm nay bánh ăn hằng ngày”. Bé Li ít khi ăn bánh mì. Thức ăn hằng ngày là cơm. Vì thế, có lần trong giờ giáo lý, cô bé thắc mắc hỏi Chị Euphrasie: ”Thưa Dì, sao Đức Chúa GIÊSU không dạy chúng ta đọc: Xin Cha cho chúng con hôm nay cơm ăn hàng ngày?” Bị hỏi bất ngờ, Chị Nữ Tu hơi lúng túng. May mắn thay, mặc dầu không phải nhà thần học giỏi giang nhưng với tấm lòng vàng, Chị Euphrasie tìm lời giải thích: ”Bởi vì .. bởi vì .. bánh mì cũng có nghĩa là Thánh Thể! Con nhớ xin Đức Chúa GIÊSU cho con được rước lễ hàng ngày. Để nuôi xác, con cần ăn cơm. Nhưng để nuôi linh hồn - có giá trị gấp ngàn lần thân xác - con cần có Bánh Hằng Sống, tức là Bánh Thánh Thể Đức Chúa GIÊSU!” Bé Li ghi khắc trong con tim ngây thơ trong trắng lời giải thích của Chị Euphrasie.

Tháng 5 năm đó, bé Li được hồng phúc rước lễ lần đầu. Bé thì thầm với Đức Chúa GIÊSU Bé Nhỏ đang ngự trong lòng: ”Xin Chúa luôn luôn ban cho con bánh ăn hằng ngày để linh hồn con được sống và sống mạnh khoẻ”. Từ sau khi rước lễ lần đầu, mỗi buổi sáng, bé Li đều thức dậy đi lễ để được rước Đức Chúa GIÊSU Bé Nhỏ vào lòng. Mỗi ngày, bé tha thiết cầu xin Chúa đừng để những người cộng sản hung ác ngăn cấm bé rước Đức Chúa GIÊSU, bởi vì, bé thưa: ”Con đâu làm được gì, nếu không có Chúa?”

Một buổi sáng, đang giờ học, bỗng cánh cửa ra vào bị mở tung. Năm người đàn ông mặc đồng phục công an hùng hổ bước vào. Một ông ra lệnh: ”Mọi người phải giao nộp tất cả các ảnh thờ quấy. Nhà nước không dung thứ cho ai tôn thờ ngẫu tượng, tà thần!” Các học sinh sợ hãi, hết lấm lét nhìn 5 người mặc đồng phục lại nhìn Nữ Tu Euphrasie đang đứng bất động như bức tượng gỗ! Nhưng rồi các em hiểu rõ lệnh truyền, đành phải thi hành. Tất cả lần lượt giao nộp các ảnh thánh Chúa và Đức Mẹ. Bé Li cũng miễn cưỡng từ từ rút ra các ảnh thánh. Nhưng riêng bức ảnh Đức Chúa GIÊSU - Đấng Chăn Chiên Nhân Lành - ẵm một chiên con trên vai là bé Li yêu thích nhất. Đây là bức ảnh kỷ niệm ngày bé rước lễ lần đầu. Bé muốn dấu bức ảnh, thay vì giao nộp. Bé vội kín đáo gấp bức ảnh làm đôi và nhét vào chiếc áo trong. Nhưng hành động này không qua mặt viên công an trưởng. Ông tức giận hét lớn: ”Đồ nhãi con! Bé tí xíu mà đã dám lường gạt đại quốc Trung Hoa! Hãy truy lùng tức khắc người cha của đứa bé phản động này!”

Chỉ vỏn vẹn một khắc đồng hồ sau, bé Li và cha bé bị còng tay và bị dẫn vào nhà thờ, đông nghẹt dân làng. Trước đôi mắt kinh hãi của mọi người, viên công an chửi rủa, rồi ra lệnh mở tung Nhà Tạm, ném Chén Thánh xuống, khiến Mình Thánh Chúa rơi vung vãi trên mặt nền nhà thờ. Xong, ông trịnh trọng ra lệnh: ”Từ nay, không ai được bén mãng tới nhà thờ này. Nếu bất tuân, sẽ bị tuyệt mạng!” Mọi người lặng lẽ ra về. Các tín hữu Công Giáo lòng đau như cắt, thì thầm đọc kinh phạt tạ, đền bù hành động phạm thánh.

.. Ngôi nhà thờ trở nên vắng lặng như tờ. Người ta tưởng không còn một bóng người nào. Nhưng thực tế không phải như vậy. Trên trần nhà thờ, một vị Linh Mục thừa sai người Pháp đang ẩn núp. Đó là Cha Luca. Chính Cha kể lại những gì xảy ra sau đó. Sáng tinh sương ngày hôm sau, cửa nhà thờ nhẹ nhàng mở ra và một bé gái 10 tuổi len lén đi vào. Đến nơi có Mình Thánh Chúa bị tung rớt, bé Li quì cúi xuống, lấy lưỡi rước một Bánh Thánh. Bé Li yên lặng cầu nguyện một lúc rồi rón rén ra về. Trông thấy cảnh tượng đó, Cha Luca đau thót trong lòng. Cha thầm thì cầu xin đừng ai trông thấy bé Li. Cảnh tượng trên đây tái diễn mỗi buổi sáng cho đến Bánh Thánh cuối cùng. Sáng hôm đó, như thường lệ, bé Li rón rén đi thẳng lên cung thánh. Nhưng một tiếng súng chát chúa vang lên. Một người lính núp nơi cánh cửa giơ súng bắn thẳng vào người bé. Bé gục xuống trên vũng máu. Cha Luca tưởng bé đã tắt thở, nào ngờ Cha trông thấy bé cố gắng trườn lên chỗ có Bánh Thánh rồi giơ lưỡi rước Bánh Thánh cuối cùng. Rước xong, bé uốn mình một cái, rồi thân thể giãn ra. Bé Li đã trút hơi thở cuối cùng. Bé đã cứu tất cả các Bánh Thánh. ... ”

Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức GIÊSU KITÔ, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Chúa GIÊSU KITÔ, và được kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Chúa GIÊSU KITÔ, tức là sự công chính do THIÊN CHÚA ban, dựa trên Đức Tin. Vấn đề là được biết chính Đức Chúa GIÊSU KITÔ, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Philipphê 3,8-11).

(Maria Winowska ”Les Voleurs de Dieu”, Editions Saint Paul, 1989, trang 151-153) Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

1. THÁNH ANTÔN VÀ PHÉP LẠ THÁNH THỂ TẠI TOULOUSE

Thánh Antôn thành Padova (1195-1231) là tu sĩ hèn mọn dòng thánh Phanxicô thành Assisi (1182-1226), Tiến Sĩ Hội Thánh. Có thể nói ngài là một trong những vị thánh được kêu cầu nhiều nhất của Giáo Hội Công Giáo. Thánh Antôn gốc Bồ-đào-nha nhưng đã chọn Italia làm quê hương thứ hai và trở thành người Ý. Ngài có tên thật là Fernando. Tài hùng biện kèm theo tâm tình đạo đức sâu xa đã khiến các Bề Trên gởi Cha Antôn đi thuyết giảng nhiều nơi. Linh Mục Antôn có biệt tài bẽ gãy mọi lý lẽ của bọn lạc giáo - cách riêng nhóm Albigeois - lúc ấy đang tung hoành tại Toulouse và vùng Tây Nam nước Pháp. Mức độ thánh thiện của Linh Mục tu sĩ Antôn trổi vượt đến độ, chỉ vỏn vẹn một năm sau khi ngài qua đời, Đức Giáo Hoàng Gregorio 9 (1227-1241) đã nâng Cha Antôn lên bậc hiển thánh! Đó là năm 1232.

Ưu điểm cuộc đời thánh Antôn là lòng tôn sùng Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể. Chính tâm tình kính yêu này đã giúp thánh nhân đánh bại mọi tấn kích vô thần đối với Đức Tin Công Giáo. Một ngày, thánh Antôn có mặt tại Toulouse để bác bỏ các lầm lạc của nhóm Albigeois liên quan đến bí tích Thánh Thể. Cuộc tranh cãi diễn ra vô cùng sôi nổi. Thánh Antôn lý luận rành mạch và vững mạnh đến độ nhóm lạc giáo phải cứng miệng. Cứng miệng nhưng không dễ đầu hàng. Họ cố gắng cầm cự cho đến phút chót. Sau cùng, trưởng nhóm lạc giáo đề nghị:

- Dẹp một bên các lý luận. Bây giờ chúng ta đi vào thực tế. Nếu ông có thể đưa ra một bằng chứng, qua một phép lạ tỏ tường, trước sự chứng kiến của toàn dân rằng: Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ hiện diện thật sự trong Bánh Thánh, thì tôi sẵn sàng từ bỏ lạc giáo và trở về với Đức Tin Công Giáo.

Đầy tin tưởng nơi quyền năng vô biên của Đức Chúa GIÊSU KITÔ Thánh Thể, thánh Antôn trả lời ngay:
- Tôi chấp thuận đề nghị của anh.
Ông lạc giáo Albigeois nói tiếp:
- Ở nhà tôi có một con la cái. Tôi sẽ nhốt nó vào chuồng và bỏ nó nhịn đói 3 ngày. Ngày thứ ba, tôi sẽ dẫn nó đến đây, trước mặt mọi người, và dọn cho nó một thùng kiều mạch thơm ngon. Còn ông, ông hãy đưa cho nó ”cái” mà ông gọi là Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Nếu con vật bị đói mà không thèm ăn của ngon người ta dọn cho nó nhưng lại chạy đến cùng Đấng THIÊN CHÚA, mà theo lời ông, hết mọi thọ sinh phải bái gối thờ lạy, thì tôi sẽ trọn lòng tin nơi giáo huấn của Hội Thánh Công Giáo.

Đúng ngày hẹn, toàn thể dân thành Toulouse chen chúc có mặt tại quảng trường chính, nơi diễn ra cuộc thách thức. Tín hữu Công Giáo cũng như đồ đệ lạc giáo, mỗi người dấu ẩn một tâm tình riêng tư. Gần đó, trong một nhà nguyện, thánh Antôn dâng Thánh Lễ thật sốt sắng.

Bên ngoài, ông lạc giáo Albigeois kéo con la cái đến và truyền mang cho con vật thức ăn nó ưa thích. Nhóm lạc giáo có mặt đông đảo lộ vẽ hoan hỉ như cầm chắc thắng lợi. Thánh Antôn từ thánh đường bước ra, tay giơ cao Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Giữa bầu khí im lặng như tờ, thánh Antôn lớn tiếng ra lệnh cho con lừa:

- Nhân danh THIÊN CHÚA, Đấng tạo dựng nên ngươi, và mặc dầu bất xứng, ta đang giữ Ngài trong tay ta, ta truyền cho ngươi, hỡi con vật đáng thương, hãy mau lẹ đến quỳ gối thờ lạy Người. Phải làm cho các kẻ lạc giáo nhìn nhận rằng, mọi thọ sinh đều phục tùng Đấng THIÊN CHÚA Tạo Hóa mà vị Linh Mục Công Giáo được diễm phúc làm cho Ngài ngự xuống trên bàn thờ.

Cùng lúc ấy, người ta đưa thùng kiều mạch thơm ngon đến trước mặt con lừa. Lạ lùng thay, con lừa không đoái hoài đến thức ăn. Trái lại, nó nghe theo lệnh của thánh Antôn. Nó gập hai cẳng trước và quì xuống cung kính thờ lạy Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ.

Trước cảnh tượng này, các tín hữu Công Giáo vui mừng không tả xiết. Còn nhóm lạc giáo thì tỏ ra kinh hoàng rúng động. Trước phép lạ tỏ tường, ông trưởng nhóm lạc giáo Albigeois đã giữ đúng lời hẹn. Ông từ bỏ lạc giáo và khiêm tốn trở về với giáo huấn chân thật của Giáo Hội Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền.

2. ĐỒ ĐỆ LẠC GIÁO ZWINGLI HOÁN CẢI NHỜ PHÉP LẠ THÁNH THỂ

Đan viện hoàng gia San Lorenzo ở Escurial bên Tây-Ban-Nha, do vua Philipphê II (1527-1598) thành lập. Nơi đây có tôn kính Bánh Thánh Phép Lạ. Hơn 4 thế kỷ trôi qua nhưng Bánh Thánh vẫn giữ nguyên vẹn bản chất. Bánh Thánh Phép Lạ được đặt nơi bàn thờ bên trong Phòng Thánh. Bánh Thánh được che khuất bởi một bức tranh tuyệt đẹp. Bức tranh diễn tả vua Carlo II (1661-1700) cùng với toàn thể triều đình đang quì gối thờ lạy Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ.

Sử liệu đan viện San Lorenzo ghi lại sự tích Bánh Thánh Phép Lạ như sau.

Thế kỷ 16 là một trong những thế kỷ đau thương nhất của Giáo Hội Công Giáo. Tại Âu Châu nổi lên phong trào Cải Cách đưa đến sự ly khai làm phát sinh các hệ phái Tin Lành. Nổi bậc nhất là 3 ông tổ lạc giáo: Jean Calvin (1509-1564) người Pháp, Martin Luther (1483-1546), người Đức và Ulrich Zwingli, người Thụy Sỹ.

Hòa Lan lâm cảnh nội chiến đẫm máu, dưới chiêu bài tôn giáo. Đâu đâu cũng gặp cảnh tang thương chết chóc. Các thánh đường và các tu viện bị xúc phạm, đốt cháy. Lợi dụng “nước đục thả câu” nhóm lạc giáo Zwingli cũng xuất đầu lộ diện đánh phá khắp nơi.

Một ngày trong năm 1592, đồ đệ Zwingli hùng hổ xông vào thành Gorkum. Họ đập ảnh tượng thánh và theo thói dữ vẫn làm, họ đi đến chỗ phạm thánh. Họ ùa vào nhà thờ chánh tòa ăn cướp những gì có giá trị. Sau cùng họ cướp Bình đựng Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ và trút bỏ các Bánh Thánh xuống đất. Chưa hết, như bị quyền lực Satan điều khiển, họ còn dám giơ chân đạp lên Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Trước hành động xúc phạm, Đức Chúa GIÊSU KITÔ không trừng phạt nhãn tiền các thủ phạm. Ngài chỉ để lại một dấu tích như bằng chứng đau thương của lòng Nhân Hậu. Một Bánh Thánh bị chà đạp bỗng tuôn ra máu tươi của người sống.

Chứng kiến hiện tượng lạ lùng, một trong các đồ đệ lạc giáo nhận được ơn hoán cải. Tạm gọi tên ông là Gioakim. Ông Gioakim vừa có tâm tình kính tôn trước Phép Lạ Thánh Thể vừa kinh hoàng về hành động phạm thượng của mình. Hai tâm tình hỗn độn đó khiến ông bị đứng im như trời tròng. Ông muốn chạy lại cầm lấy Bánh Thánh Phép Lạ nhưng một sức mạnh vô hình ngăn cản không cho ông nhúc nhích. Sau một lúc phấn đấu, ông chạy như điên ra khỏi nhà thờ. Ông chạy một mạch đến thẳng nhà Vị Tổng Đại Diện lúc bấy giờ là Đức Ông Jean Vander Delpht. Ông xúc động kể lại cho Cha Bề Trên giáo phận nghe biến cố phạm thánh vừa diễn ra nơi nhà thờ chánh tòa.

Đức Ông cùng ông Gioakim đến ngay nhà thờ. Với tâm tình tràn đầy kính tôn trước Bánh Thánh Phép Lạ, Đức Ông mang Bánh Thánh chạy trốn khỏi nhóm lạc giáo Zwingli. Cả hai rời Gorkum tiến về thành phố Malines và đến thẳng tu viện các tu sĩ dòng Thánh Phanxicô. Đức Ông giao cho các tu sĩ nhiệm vụ cất giữ Bánh Thánh Phép Lạ đồng thời làm việc đền tạ vì Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể bị xúc phạm.

Về phần ông Gioakim, ông hoàn toàn ăn năn về tội lỗi tầy trời của mình. Ông không muốn rời xa Bánh Thánh Phép Lạ. Ông xin các tu sĩ cho phép ở lại tu viện. Sau thời gian chay tịnh, khóc lóc đền bù tội phạm thánh, ông xin gia nhập tu viện. Từ đó ông tiếp tục cuộc sống tu trì trong tâm tình thống hối và yêu mến tràn bờ đối với Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể.

Bánh Thánh Phép lạ được tôn kính nơi tu viện các tu sĩ Phanxicô ở Malines một thời gian. Sau đó vì cẩn trọng, Bánh Thánh được đưa sang Vienne, thủ đô nước Áo, rồi lại chuyển đến Praha, thủ đô nước Tiệp. Sau cùng, Bánh Thánh Phép Lạ được đưa sang Tây-Ban-Nha, đặt nơi Đan viện hoàng gia San Lorenzo ở Escurial.

3. CHIẾN THẮNG NHỜ ĐỨC CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ

Năm 1239, một cuộc chiến kinh hoàng càn quét đất nước Tây-Ban-Nha. Trước tiên, quân Ả-Rập hồi giáo tiến chiếm thành Valencia. Valencia nằm về mạn Đông Nam Tây-Ban-Nha. Một ngày, nhóm hồi giáo bất ngờ đem quân đông đảo nhằm đánh phá tan tành quân lực Công Giáo chỉ gồm khoảng 1 ngàn binh sĩ. Thấy cơ nguy, binh sĩ Công Giáo chạy vào trấn thủ nơi một lâu đài. Với con số quá ít ỏi so với địch quân, lại thêm địa thế cách xa Valencia, binh sĩ Công Giáo gần như cầm chắc thất bại trong tay.

Không còn hy vọng nơi bất cứ quyền lực thế trần, binh sĩ Công Giáo đặt trọn niềm tin nơi sự trợ giúp của Trời Cao. Họ cũng muốn chuẩn bị tinh thần trước khi khởi sự cuộc chiến bằng cách lãnh nhận hai bí tích Giải Tội và Thánh Thể. Thế nhưng, hiểm nguy đến gần, thời giờ khẩn cấp mà chỉ có một Linh Mục. Tất cả các binh sĩ không thể cùng lãnh nhận 2 bí tích. Họ nhanh chóng đề cử 6 vị tướng tham dự Thánh Lễ thay cho toàn số binh sĩ. Trong lúc đó, các binh sĩ Công Giáo túc trực sẵn sàng đẩy lui mọi tấn kích của quân thù.

6 vị tướng dọn mình xưng tội. Rồi họ đứng quanh bàn thánh sốt sắng tham dự Thánh Lễ. Thánh Lễ đến hồi truyền phép và sau đó mọi người chuẩn bị rước lễ. Vào chính lúc ấy, còi báo động vang lên báo hiệu quân hồi giáo đang tiến vào. Nhanh như chớp, 6 vị tướng vơ vội vũ khí và chạy như bay nhập hàng với các binh sĩ. Không muốn phơi bày Mình Thánh Chúa cho quân hồi giáo xúc phạm, vị Linh Mục cẩn trọng đặt tất cả Bánh Thánh vào Khăn Thánh, gói kín lại và dấu dưới một viên đá.

Đức Chúa GIÊSU KITÔ như cảm động trước tâm tình tín thác vô bờ của các tướng lãnh cùng binh sĩ Công Giáo thành Valencia đối với bí tích Thánh Thể. Ngài không để họ phải thất vọng. Ngài ra tay uy quyền cứu giúp. Đức Chúa GIÊSU đã xuất hiện cách oai hùng, dẫn đầu đoàn binh Công Giáo ít ỏi, chống trả quân hồi giáo vô cùng đông đảo. Thế là nhóm Ả rập thất kinh hồn vía, ù té bỏ chạy như điên.

Quân lực Công Giáo Tây Ban Nha chiến thắng vẻ vang mà không mảy may tổn thất. Đầy lòng tri ân trước chiến thắng bất ngờ, các tướng lãnh Công Giáo quyết định thi hành chương trình thiêng liêng đã vạch ra trước khi bị tấn công. Đó là lãnh nhận Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Vị Linh Mục hân hoan chạy đến chỗ dấu ẩn, lấy Mình Thánh Chúa và đưa về bàn thờ. Nhưng lạ lùng thay, khi vị Linh Mục mở Khăn Thánh ra thì thấy các Bánh Thánh lấm tấm các giọt máu và Máu dính vào Khăn Thánh.

Thay vì tỏ ra kinh hãi, các binh sĩ Công Giáo Tây Ban Nha nghĩ rằng, chính Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ đã giúp cho cuộc giao tranh đi đến chỗ chiến thắng ngoài mức chờ mong.

Trong khi đó, quân Ả Rập hồi giáo sau khi chạy tán loạn, liền qui tụ lại. Họ hổ thẹn vì đã thất trận ê chề. Lần này họ cương quyết đánh giết tan tành nhóm binh lính Công Giáo. Về phía binh sĩ Công Giáo, được củng cố nhờ sự trợ giúp thần linh của Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể, không hề tỏ ra nao núng sợ hãi. Họ xin vị Linh Mục cầm Khăn Thánh có in Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ rồi đứng trên một nơi thật cao, làm thế nào để tất cả các binh lính Công Giáo đều có thể trông thấy. Như được kích động bởi Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ, các binh sĩ Công Giáo hăng say chiến đấu. Họ xông tới giết chết cách dễ dàng toàn bộ nhóm quân hồi giáo.

Cuộc chiến thắng vinh quang thứ hai chấm dứt cuộc giao tranh đẫm máu của quân Ả Rập hồi giáo muốn đánh phá và chiếm đoạt thành Valencia của các tín hữu Công Giáo.

(Père Eugène Couet, ”Les Miracles Historiques du Saint Sacrement”, Éditions D.F.T, Réédition 1998).



PHÉP LẠ THÁNH THỂ (II)


Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt

1. HÌNH ĐỨC CHÚA GIÊSU HÀI ĐỒNG VÀ MÁU THÁNH TUÔN RA TỪ MÌNH THÁNH CHÚA

Ngày 13-7-1857, Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Pio IX (1846-1878) đến hành hương Ferrare (Trung Bắc Ý). Chiều hôm ấy, cùng với đoàn tùy tùng gồm các Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục, Đức Pio IX trang nghiêm tiến vào đền thờ Santa Maria del Vado nơi có thánh tích Phép Lạ Thánh Thể xảy ra trước đó gần 7 thế kỷ. Thánh đường nhân dịp này được thắp sáng trông thật uy linh lộng lẫy. Đức Pio IX đến quì trước Nhà Tạm, thờ lạy Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể. Xong, ngài bước sang bàn thờ bên cạnh, nơi có thánh tích Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU ghi trên các tấm đá. Đức Pio IX lặng lẽ quì gối thờ lạy Máu Châu Báu Cực Thánh của Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Sau khi thờ kính, Đức Thánh Cha tiến lại gần quan sát kỹ lưỡng các Vết Máu. Ngài quay sang nói với mọi người hiện diện:

- Các Giọt Máu này giống y các Giọt Máu Phép Lạ ghi trên Khăn Thánh thành Orvieto vào năm 1263.

(Câu nói chứng tỏ sự thật hiển nhiên của Phép Lạ Thánh Thể tại cả hai nơi: Ferrare và Orvieto, đều thuộc nước Ý)

Năm 1871, nhân kỷ niệm 700 năm xảy ra Phép Lạ Thánh Thể Ferrare (1171-1871), Đức Thánh Cha Pio IX ban cho thành một ân huệ đặc biệt. Đó là hàng năm vào Chúa Nhật thứ 5 sau Phục Sinh, toàn thể giáo phận Ferrare được cử hành các nghi lễ trọng thể để kính nhớ Phép Lạ Thánh Thể.

Sau đây là diễn tiến Phép Lạ được ghi trong sử liệu Giáo Hội Công Giáo.

Chúa Nhật Phục Sinh 26-3-1171, nơi nhà thờ Santa Maria del Vado, cử hành Thánh Lễ trọng thể mừng Đức Chúa GIÊSU Phục Sinh. Chủ tế Thánh Lễ là Cha Pietro di Verona, một Linh Mục nổi tiếng thánh thiện. Hiện diện trong Thánh Lễ còn có một số Linh Mục khác và đông đảo giáo dân thành Ferrare tham dự.

Sau lời truyền phép khi vị chủ tế giơ cao Mình Thánh Chúa cho giáo dân thờ lạy, bỗng toàn thể cộng đoàn trông thấy rõ ràng hình ảnh Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng xuất hiện trong Bánh Thánh. Thân Thể Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng nằm trọn trong Bánh Thánh. Vào thời kỳ đó, tại nước Ý, Bánh Thánh lớn thường có chiều kích gấp 4,5 lần Bánh Thánh lớn hiện nay. Do đó, toàn thể cộng đoàn có thể chiêm ngắm rõ ràng hình ảnh Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng xuất hiện trong Bánh Thánh.

Thánh Lễ được tiếp tục trong sự xúc động sâu xa của toàn thể cộng đoàn. Thế nhưng, sự lạ êm ái nhẹ nhàng đầu tiên lại tiếp nối một sự lạ thứ hai, oai hùng và đáng run sợ hơn. Đó là, khi vị chủ tế cầm lấy Bánh Thánh và bẻ ra làm đôi, bỗng Máu Thánh Chúa dồi dào tuôn ra từ Bánh Thánh. Máu Thánh chảy ra lênh láng. Chưa hết, Máu Thánh còn phun vọt lên khiến trần đền thờ lấm tấm các giọt Máu Thánh. Mọi tín hữu có mặt đều khiếp kinh hồn vía.. Sau đó, người ta nghĩ rằng, Phép lạ Máu Thánh tuôn ra từ Bánh Thánh như câu trả lời cho những người Do Thái lúc ấy đang có mặt tại thành Ferrare. Những người Do Thái này thường rêu rao từ chối không tin Đức Chúa GIÊSU hiện diện thật sự trong Bánh Thánh. Không tin đã đành, họ còn dám chế nhạo và xúc phạm đến Đức Tin của các tín hữu Công Giáo.

Phép Lạ Thánh Thể quá hiển nhiên. Tin đồn loan nhanh trong thành phố và các vùng phụ cận. Mọi người tức tốc chạy đến chứng kiến tận mắt Phép Lạ Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU tuôn ra từ Bánh Thánh. Chính Đức Cha Amato, giám mục Ferrare cũng đích thân đến ngay nhà thờ Santa Maria del Vado. Chứng kiến hiện tượng diệu kỳ, đức giám mục long trọng tuyên bố trước toàn thể các tín hữu:

- THIÊN CHÚA đã thực hiện một công trình cao cả và trọng đại.

Về phần Đức Cha Gerardo, Tổng Giám Mục giáo phận Ravenna, khi nghe tin đồn Phép Lạ Thánh Thể cũng mau mắn đến ngay Ferrare. Trước Máu Thánh phép lạ, Đức Cha quỳ gối thờ kính thật lâu. Sau đó, Đức Cha ban ân xá cho tín hữu nào đến kính viếng Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU với trọn lòng tin yêu. Đức Tổng Giám Mục cũng không ngần ngại tuyên bố:

- Quả thật, chính THIÊN CHÚA đã làm một điều kỳ diệu.

2. CA ĐOÀN THIÊN THẦN THÁP TÙNG CUỘC RƯỚC KIỆU MÌNH THÁNH CHÚA.

Ngày 11-8-1264, Đức Giáo Hoàng Urbano 4 (1261-1264) ban tự sắc thiết lập lễ trọng thờ kính Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ trong toàn thể Giáo Hội Công Giáo. Cùng lúc, Đức Urbano 4 cũng giao cho thánh Tommaso d'Aquino (1225-1274) nhiệm vụ soạn các bản văn Phụng Vụ cho lễ trọng đại này. Tiếc thay, Đức Urbano 4 từ trần hơn một tháng rưỡi sau đó vào ngày 2-10-1264, vì thế lễ Mình Thánh Chúa bị bỏ lửng.

Mãi đến hơn 50 năm sau, nơi Công Đồng Vienne, Đức Clemente 5 mới truyền áp dụng tự sắc của Đức Urbano 4 về việc long trọng mừng lễ Mình Thánh Chúa trong toàn thể Giáo Hội Công Giáo. Hai năm sau, 1318, Đức Gioan 22 (1316-1334) lại thêm vào lễ Mình Thánh Chúa cuộc rước kiệu trọng thể. Mình Thánh Chúa được đặt trong Mặt Nhật và được long trọng rước qua các nẻo đường làng hoặc thành phố, với hoa nến trang hoàng thật lộng lẫy.

Vào thế kỷ 16, nơi thành Luchent ở miền Bắc nước Tây Ban Nha, tín hữu Công Giáo có thói quen mừng trọng thể lễ Mình Thánh Chúa cùng với cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa. Giáo dân tổ chức vô cùng chu đáo. Mình Thánh Chúa được long trọng rước qua các đoạn đường thật dài. Ngày 1-7-1564 để gia tăng phần long trọng cho cuộc kiệu, người ta xin đội trống kèn âm nhạc của thành phố Xativa đến tháp tùng Mình Thánh Chúa.

Mãi đến giờ Cuộc rước phải bắt đầu, vẫn không thấy đoàn âm nhạc trống kèn đâu cả. Mọi người kiên nhẫn chờ đợi trong vòng một tiếng đồng hồ. Sau cùng, Cha Sở ra hiệu cuộc rước khởi hành.

Khi đoàn rước đi qua cửa thành, mọi người bỗng nghe rõ một điệu nhạc trổi lên thật du dương. Tiếng trống tiếng nhạc tiếng kèn gieo vào lòng mỗi người một niềm vui khó tả. Ai nấy hài lòng vì cho rằng đội kèn thành phố Xativa đã thật sự đến nơi. Nào ngờ sau một lúc lâu, vẫn không trông thấy bóng dáng nhạc sĩ nào cả. Trong khi đó, tiếng nhạc tiếng kèn tiếng trống vẫn tiếp tục trổi lên những bản nhạc tuyệt vời.

Toàn thể các tín hữu Công Giáo trong đoàn rước kiệu Mình Thánh Chúa nhìn nhau lộ vẻ vừa ngỡ ngàng vừa hân hoan. Một số bạn trẻ tự động rời hàng ngũ để kiểm xem ai dám ngăn chặn không cho ban nhạc thành phố Xativa nhập đoàn rước. Nhưng các bạn trẻ không trông thấy một ai. Thêm vào đó, khi ở ngoài hàng ngũ, các bạn trẻ không còn nghe được tiếng âm nhạc du dương nữa. Trái lại vừa khi đứng nghiêm trang vào hàng ngũ, tức khắc tai các bạn trẻ lại nghe được âm nhạc tuyệt vời như trước.

Chính lúc này mọi người đồng ý với nhau rằng, THIÊN CHÚA đã gởi Các Thiên Thần của Ngài - ca đoàn thiên quốc - đến thay thế cho ban nhạc thành phố thất trung, không muốn dùng tiếng kèn điệu nhạc tiếng trống vang lên lời chúc tụng ngợi khen Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ.

Tiếng nhạc thiên quốc tháp tùng đoàn tín hữu Công Giáo rước kiệu Mình Thánh Chúa dọc theo suốt các quãng đường dài, trong trang nghiêm và sốt sắng. Ngoài ra, không phải chỉ riêng các tín hữu tham dự cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa được diễm phúc nghe âm nhạc tuyệt vời đến từ Trời Cao, nhưng cả một bô lão nữa. Vị cao niên này bị bệnh phải nằm liệt giường, không thể tham gia cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa. Nhưng lạ lùng thay, cả cụ già này cũng được diễm phúc nghe rõ tiếng nhạc du dương réo rắc của ca đoàn các Thiên Thần đến từ Trời Cao. Thật là tuyệt diệu.

3. BÁNH THÁNH VÀ CHÉN THÁNH TỎ HIỆN CHO 2 NGƯỜI DO THÁI

Thánh Tomas de Villanueva là tu sĩ dòng Thánh Agostino. Ngài sinh năm 1486 và qua đời năm 1555 tại Valencia bên nước Tây-ban-nha. Thánh nhân xuất thân từ một gia đình thượng lưu.

Ngày còn là tu sĩ trẻ, Cha Tomas de Villanueva kết thân với một thanh niên từ Do thái giáo trở lại Kitô Giáo. Tạm gọi tên chàng là Antonio. Từ ngày lãnh nhận bí tích Rửa Tội và gia nhập Giáo Hội Công Giáo, Antonio nhiệt tâm sống đạo. Chàng sống đạo thật nghiêm chỉnh và chân thành.

Một ngày chàng lâm trọng bệnh. Biết mình không thoát lưỡi hái tử thần, Antonio mời Cha Tomas de Villanueva đến và kể cho Cha nghe câu chuyện đời mình như sau.

Thưa Cha là người Cha, là vị an ủi, là ông thầy thuốc và là đấng chỉ đạo dìu dắt linh hồn con. Xin Cha thứ lỗi cho con vì đã làm phiền Cha khi mời Cha ghé đến nhà thăm con. Thật ra con muốn tỏ lộ cùng Cha một bí mật trọng đại. Con không muốn vĩnh viễn ra đi trước khi ủy thác cho Cha điều bí mật con vẫn giữ kín trong lòng.

Một ngày, thân phụ con sai con đi giải quyết một vấn đề nghiêm trọng. Con ra đi cùng với một thanh niên Do Thái đồng tuổi với con. Trên đường, chúng con bắt đầu thảo luận về Đấng MESSIA mà người Do Thái chúng con vẫn còn mù quáng mong mỏi chờ đợi ngày Ngài xuất hiện. Chúng con thảo luận nồng nhiệt đến độ nẩy sinh niềm ước muốn được trông thấy Đấng MESSIA. Lòng đầy trào ra miệng. Chúng con cất tiếng tha thiết nguyện xin:

- A, phải chi giờ đây Ngài xuất hiện ngay nơi thời đại chúng con, hẳn chúng con sẽ sung sướng biết là chừng nào. Thật hạnh phúc biết bao nếu chúng con được may mắn trông thấy Ngài tận mắt!

Cuộc trao đổi tư tưởng cứ thế tiếp tục và càng nói, lòng chúng con càng bừng lên niềm ao ước chân thật: trông thấy Đấng MESSIA! Chúng con mải mê nói cho đến lúc chúng con trông thấy một luồng sáng tuyệt đẹp xuất hiện trên bầu trời. Trời đã chạng vạng tối. Ánh sáng chói chang khiến chúng con có cảm tưởng như bầu trời mở ra. Ngay lúc ấy, con nhớ lại lời thân phụ con thường nói với chúng con:

- Thỉnh thoảng trời mở ra và chúng ta có thể xin Chúa vài ơn với niềm hy vọng chan chứa là thế nào Chúa cũng nhận lời chúng ta cầu xin.

Tức khắc, chúng con quì sụp xuống. Và với trọn tâm tình tha thiết, chúng con khẩn nài THIÊN CHÚA tỏ lộ Đấng MESSIA cho chúng con. Chúng con xin Chúa cho chúng con được chiêm ngưỡng thánh nhan Đấng chúng con hằng mong mỏi trông chờ từ mấy ngàn năm qua.

Giữa những tiếng khẩn nài và trước ánh sáng chói chang mà hai cặp mắt chúng con dán chặt không rời, bỗng chúng con trông thấy xuất hiện gần nơi chỗ chúng con đang quì, một Chén Thánh lóng lánh với Bánh Thánh lơ lửng bên trên. Bánh Thánh có chiều kích giống y như Bánh Thánh vị Linh Mục Công Giáo giơ cao cho giáo dân thờ lạy sau khi truyền phép. Không bút nào tả hết nỗi kinh hoàng của chúng con vào chính lúc ấy. Nhưng chỉ trong thoáng giây thôi. Bởi vì ngay sau đó, chúng con cảm nghiệm niềm an bình và an ủi khôn tả. Chúng con được giải thoát khỏi mọi nỗi sợ hãi và cùng lúc, đôi mắt linh hồn chúng con được mở rộng. Nhờ ánh sáng từ trời soi chiếu, chúng con hiểu ngay rằng, Đấng MESSIA chúng con hằng mong đợi, đang ngự thật trong Bánh Thánh. Thời gian chờ đợi đã chấm dứt lâu lắm rồi. Và tôn giáo đích thật chính là Kitô Giáo.

Khỏi cần nói nhiều Cha cũng hiểu lòng chúng con tràn ngập niềm hân hoan và tri ân THIÊN CHÚA như thế nào. THIÊN CHÚA đã đích thân chữa lành bệnh mù quáng tinh thần của chúng con bằng một phép lạ quá diệu kỳ.

Khi trở về nhà, con nghĩ nên giữ kín chuyện con đã được Chúa ban cho ơn hoán cải tâm hồn. Sau đó, vào một dịp thuận lợi, con vội vàng xin lãnh nhận bí tích Rửa Tội và gia nhập Giáo Hội Công Giáo, duy nhất, thánh thiện và tông truyền. Từ đó, giống như Cha đã biết, con luôn luôn sống đời Kitô hữu chân chính. Con luôn trung tín với các giáo huấn Tin Mừng của Chúa chúng ta là Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Đấng Cứu Độ thế giới cùng toàn thể nhân loại.

(Père Eugène Couet, ”Les Miracles Historiques du Saint Sacrement”, Éditions D.F.T, Réédition 1998).



PHÉP LẠ THÁNH THỂ (III)


Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt

1. ĐỨC CHÚA GIÊSU HÀI ĐỒNG XUẤT HIỆN TRONG BÁNH THÁNH

Vua thánh Louis IX (1214-1270) của nước Pháp sinh tại Poissy và qua đời tại Carthage bên Tunisie. Nhà vua trị vì nước Pháp 44 năm với 10 năm đầu (1226-1236) dưới quyền nhiếp chính của Hoàng thái hậu Blanche de Castille.

Vua thánh Louis 9 là người liêm chính, là vị vua hiền đức trong thời bình và là bậc dũng chí trong thời chiến. Ngài nêu gương cho các bậc làm chồng làm cha cũng như cho các vua chúa quan quyền. Ngoài ra vua thánh Louis 9 còn là lý tưởng sống thánh giữa đời cho hàng giáo dân. Với tính tình luôn vui vẻ hồn nhiên, vua Louis 9 đã biết kín múc từ Đức Tin Công Giáo những tâm tình trong sáng giúp nhà vua cư xử nhã nhặn và yêu thương hết mọi người, không phân biệt giai cấp, tuổi tác và giàu nghèo.

Năm 20 tuổi (1234), Vua Louis 9 kết hôn với Marguerite de Provence. Từ đôi uyên ương hạnh phúc đã ra chào đời 11 người con. Sử liệu Pháp mô tả vua Louis 9 có dáng người dong dỏng cao đẹp, với bộ tóc dài màu hung hung, đôi mắt bồ câu và điệu bộ trông giống một thiên thần. Người ta có thể nói vua Louis 9 đã được quyền bính thánh hóa, vì chưng nhà vua đã thực thi quyền bính đến mức trọn hảo. Nét nổi bật trong cuộc đời vua thánh Louis 9 ở chỗ nhà vua dám đảo ngược trật tự xã hội. Đối với nhà vua, bậc người giữ vai chính và quan trọng nhất là những kẻ bé nhỏ và nghèo hèn. Tiếp đến mới tới hạng người chức trọng quyền cao.

Chính vì quan niệm trật tự xã hội như thế nên vua Louis 9 chú trọng rất nhiều đến các hoạt động bác ái. Nhà vua cho xây cất Viện Filles-Dieu / Nữ tử THIÊN CHÚA với mục đích chăm sóc các thiếu nữ hồi tâm phục thiện, sẵn sàng từ bỏ con đường mại dâm. Nhà vua cũng xây cất nhà thương dành riêng cho các bệnh nhân mù lòa. Ngoài ra vua Louis 9 còn cho thành lập không biết bao nhiêu Viện Mồ Côi, Viện Dưỡng Lão và các Trung Tâm Bác Ái.

Năm 1238 vua Louis 9 chính thức đăng quang và lãnh vương miện. Để ghi nhớ biến cố trọng đại này, nhà vua cho xây một dinh thự huy hoàng tráng lệ mang biệt danh Sainte-Chappelle / Thánh-Nguyện-Đường, vẫn còn cho đến ngày nay với mọi nét cao sang lộng lẫy của triều đình vua chúa.

Một ngày, nơi Thánh-Nguyện-Đường có buổi cử hành Thánh Lễ như thường lệ. Vào chính lúc vị Linh Mục giơ cao Bánh Thánh cho tín hữu thờ lạy sau khi truyền phép, bỗng Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể lấy hình Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng hiện ra trong Hình Bánh. Hình bán thân Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng có dung nhan uy nghi tuyệt đẹp. Mọi người hiện diện ngây ngất chiêm ngưỡng Thánh Nhan. Tâm lòng mọi người tràn ngập niềm tri ân cảm tạ THIÊN CHÚA đã thương ban một ân huệ cao trọng dường ấy. Giữa lúc được hưởng đặc ân này, bỗng có người nghĩ đến Vua Louis IX. Họ xin Vị Linh Mục cứ giơ cao Bánh Thánh cho mọi người thờ lạy, đồng thời chạy nhanh báo tin cho Nhà Vua biết và mời Nhà Vua đến chứng kiến tận mắt Phép Lạ tỏ tường.

Nhưng người đưa tin ngạc nhiên biết bao khi nghe Nhà Vua trả lời:

- Ai không tin vào sự hiện diện đích thực của Đức Chúa GIÊSU trong Phép Thánh Thể thì hãy đến Nhà Nguyện mà xem. Phần trẫm, trẫm hằng suy gẫm trong lòng về hồng ân trọng đại Chúa ban cho chúng ta trong bí tích Thánh Thể. Ôi Tình Yêu THIÊN CHÚA thật cao cả biết bao. Được chiêm ngưỡng Phép Lạ tỏ tường không mảy may củng cố Đức Tin kiên vững của trẫm. Được trông thấy tận mắt đâu có ích gì thêm cho Đức Tin trẫm đâu! Đối với trẫm, thật êm ái dịu ngọt biết bao khi được tin nơi Chúa Cứu Thế bằng lời Ngài nói hơn là qua Phép Lạ Ngài làm! Thêm vào đó, trẫm hằng tin tưởng vững chắc nơi sự hiện diện của Đức Chúa GIÊSU trong bí tích Thánh Thể qua lời giảng dạy của Giáo Hội Công Giáo. Với Đức Tin không cần kiểm chứng nơi đời này, chắc chắn trẫm sẽ lãnh nhận một phần thưởng lớn lao nơi đời sau trên Thiên Quốc.

2. ĐỨC CHÚA GIÊSU TỎ HIỆN DƯỚI HÌNH HÀI NHI

Câu chuyện sau đây xảy ra tại thành phố Soissons, thuộc quận Aisne, miền Đông Bắc nước Pháp. Câu chuyện do chính Linh Mục Guibert, Cha Sở giáo xứ Nogent kể lại.

Chúa Nhật Phục Sinh năm 1115, một bà mẹ trẻ Công Giáo khi đi tham dự Thánh Lễ, đem theo cậu bé trai khoảng 5,6 tuổi. Cậu bé còn quá nhỏ để có thể hiểu và theo dõi các nghi thức Phụng Vụ. Thế nhưng, không hiểu tại sao cậu bé cứ tò mò nhìm chăm chú lên bàn thờ, nơi vị Linh Mục đang dâng Thánh Lễ. Sau Truyền Phép, vị Linh Mục giơ cao Bánh Thánh cho mọi người thờ lạy. Bầu khí vừa im lặng vừa trang nghiêm. Vậy mà, cậu bé không hề tỏ ra nhút nhát trước sự hiện diện của đông đảo vô số người. Cậu bé cầm tay mẹ lay mạnh và nói lớn:

- Mẹ ơi, Mẹ xem kìa, Hài Nhi trong tay Cha Sở đang giơ cao đẹp quá!

- Vừa nói, cậu bé vừa tỏ ra vui sướng vì quang cảnh cậu bé được chiêm ngắm. Bà mẹ không trông thấy gì nên ra lệnh cho cậu bé phải giữ thinh lặng. Nhưng cậu bé cứ tiếp tục la lớn tiếng và tỏ lộ nét hân hoan. Khi vị Linh Mục đặt Mình Thánh Chúa xuống và lấy Khăn Thánh phủ lên, thì cậu bé lại nói lớn:

- Mẹ thấy không, Cha Sở che khuất Hài Nhi với chiếc khăn trắng!

Câu nói và nét mặt hớn hở của cậu bé gây xúc động mạnh nơi các giáo dân tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật Phục Sinh năm đó. Mọi người thầm hiểu, để được chiêm ngắm kỳ công THIÊN CHÚA, cần phải có tâm lòng ngây thơ trong trắng của trẻ thơ .. Trong khi người lớn, - đặc biệt những người quá nặng lòng dính bén với của cải vật chất đời này, tách rời lý trí khỏi Đức Tin Công Giáo - thì khó lòng nhận ra ánh sáng được Thiên Chúa mặc khải.

... Vào năm 1180 Đức Chúa GIÊSU Hài Nhi cũng tỏ lộ qua Bánh Thánh khi vị Linh Mục giơ cao cho giáo dân thờ lạy sau khi Truyền Phép. Điều khác biệt là lần này, Đức Chúa GIÊSU Hài Nhi lại tỏ hiện với một Vị Vua. Vị Vua mặc dầu sống trên nhung lụa và thực thi uy quyền, vẫn giữ nguyên tâm lòng ngây thơ trong trắng. Đó là Vua Philippe-Auguste (1165-1223) trị vì nước Pháp 43 năm (1180-1223).

Lên ngôi nối nghiệp vua cha là Louis VII (1120-1180) năm mới bước vào tuổi 16, Vua Philippe-Auguste đã biết dung hòa giữa một cuộc sống tráng lệ nơi hoàng cung với cuộc đời một tín hữu Công Giáo chân chính.

Một thời gian ngắn sau khi đăng quang, Vua Philippe-Auguste tham dự Thánh Lễ tại lâu đài Saint-Léger. THIÊN CHÚA uy quyền muốn thưởng công vị vua trẻ tuổi nhân ái, nên đã tỏ lộ cùng vua dưới hình Hài Nhi. Khi vị Linh Mục giơ cao Mình Thánh Chúa cho mọi người thờ lạy sau khi đọc Lời Truyền Phép, Vua Philippe-Auguste trông thấy rõ ràng hình ảnh Đức Chúa Hài Nhi GIÊSU sáng ngời tuyệt đẹp, xuất hiện giữa đôi tay vị Linh Mục. Chung quanh Hài Nhi GIÊSU có đông đảo các Thánh Thiên Thần sẵn sàng thờ lạy và phục dịch Đấng là Vua các vua.

Trước quang cảnh tuyệt dịu này, Vua Philippe-Auguste vội sấp mình thờ lạy Hài Nhi GIÊSU Thánh Thể. Nhà Vua chỉ biết khiêm tốn hết lòng cảm tạ THIÊN CHÚA đã thương ban cho mình một ân huệ trọng đại dường ấy.

3. PHÉP LẠ THÁNH THỂ TẠI THÀNH PHỐ CẢNG DADE, CHYPRE

Câu chuyện xảy ra vào thế kỷ thứ VI tại thành phố cảng Dade, đảo Chypre.

Trong thành phố có cặp vợ chồng tên Isidore sinh sống. Hai vợ chồng cùng theo lạc giáo do Sévère khởi xướng chống lại Bí Tích Thánh Thể. Nhóm lạc giáo Sévériens cấm ăn thịt và uống rượu để có lý do chỉ dùng nước lã thay vì rượu trong Thánh Lễ.

Một ngày, khi trở về nhà, ông Isidore nghe tin vợ đã trở về với Giáo Hội Công Giáo và đang tham dự Thánh Lễ. Tức giận ông ta hớt hơ hớt hải chạy đến nhà thờ, vừa đúng lúc vợ đang rước Mình Thánh Chúa. Ông túm lấy cổ vợ bóp chặt và buộc vợ phải nhả ra Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Bà vợ kinh hoàng nhả ra Bánh Thánh còn ngậm trong miệng.

Isidore cầm lấy Mình Thánh Chúa đem ra khỏi nhà thờ, vừa ném tung lên vừa buông lời xúc phạm. Sau cùng Mình Thánh Chúa rơi xuống vũng bùn. Kẻ phạm thượng chưa hả cơn giận, vội vàng chạy đến định lấy chân đạp lên Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU. Nhưng cũng chính lúc đó, ông kinh hoàng dừng lại và đứng im như bị trời tròng. Isidore trông thấy ánh sáng chói chang tỏa ra từ Bánh Thánh đã truyền phép và đang treo lơ lửng trên không. Isidore thất kinh hồn vía ôm đầu bỏ chạy một mạch về nhà.

Nhưng Isidore không hề nghĩ đến chuyện ăn năn cũng như đền bù về tội trọng đã xúc phạm đến Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Hai ngày sau, bỗng ông trông thấy xuất hiện trước mặt một hình thù đen đủi xấu xa. Ông ta nhe răng nhìn Isidore với dáng điệu chế nhạo ngăm đe. Người này nói: “Isidore à, ông và tôi, cả hai chúng ta cùng bị kết án muôn đời chịu chung một hình khổ”. Tên lạc giáo Isidore run lẩy bẩy hỏi lại: “Ông là ai?” Người này trả lời: “Tôi là kẻ đã vả vào mặt Đức Chúa GIÊSU nơi nhà thượng tế Cai-pha, trong cuộc Khổ Nạn của Người”, (Gioan 18,22). Nói xong, người này biến mất.

Câu nói và hình thù kinh tởm của người chết hiện về đủ để mở mắt tinh thần ông lạc giáo. Ông Isidore nhận ra ngay tội lỗi tầy trời của mình. Ông thật lòng thống hối và xin ẩn mình vào một đan viện. Nơi đây, ông dành cả cuộc đời để sống Chay tịnh đền bù tội lỗi của mình.

... Câu chuyện sau đây cũng xảy ra vào thế kỷ thứ VI tại thành phố Engine ở Cilicie, miền Nam nước Thổ-nhĩ-kỳ..

Nơi thành phố có hai người sinh sống. Một là tín hữu Công Giáo đạo đức. Một là đồ đệ nhóm lạc giáo Sévère. Nhóm lạc giáo tìm mọi cách đánh phá niềm tin vào Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể. Tạm gọi tín hữu Công Giáo là Bartolomeo và tên lạc giáo là Cyrus. Cyrus không bỏ lỡ cơ hội nào mà không chế nhạo tín hữu Công Giáo. Ông Bartolomeo nhẫn nhục giữ thinh lặng, không hé môi đáp lại.

Để chấm dứt một cuộc nhạo báng kéo dài khá lâu, ông Bartolomeo quyết định ra tay hành động. Ông xin tên Cyrus gởi cho ông mẩu bánh nhóm lạc giáo Sévériens vẫn rước mỗi khi cử hành thánh lễ theo nghi thức của họ. Tên Cyrus hớn hở chấp nhận vì nắm chắc phần thắng. Cyrus sai người mang mẩu bánh đến cho ông Bartolomeo.

Trong khi đó ông Bartolomeo cẩn thận dọn một thùng nước sôi. Khi sứ giả nhóm lạc giáo mang mẩu bánh đến, ông Bartolomeo mạnh tay vứt ngay vào thùng nước. Mẩu bánh tan mất trong nháy mắt trước sự chứng kiến của sứ giả lạc giáo. Liền ngay sau đó, ông Bartolomeo trang trọng mang Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ ông đang cất giữ và cũng bỏ vào thùng nước sôi. Trái với hiện tượng trước đó, Mình Thánh Chúa không chìm xuống, nhưng nằm im trên mặt nước, khô ráo. Nước trong thùng cũng đổi từ độ nóng sang độ lạnh.

Trước sự kiện lạ lùng, ông Bartolomeo dõng dạc nói với sứ giả lạc giáo:

- Anh hãy về nói với ông bạn đồ đệ lạc giáo rằng: “Chỉ có Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU trong Thánh Lễ do Giáo Hội Công Giáo cử hành mới là Mình Thánh Chúa thật”. Anh đã chứng kiến phép lạ Đức Chúa GIÊSU dùng để đánh bại những kẻ nào cả gan xúc phạm đến Ngài.

(Père Eugène Couet, ”Les Miracles Historiques du Saint Sacrement”, Éditions D.F.T, Réédition 1998).



PHÉP LẠ THÁNH THỂ (IV)


Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt

1. PHÉP LẠ THÁNH THỂ TẠI FIRENZE (BẮC Ý)

Thứ sáu 30-12-1230, Cha Huguccion một vị Linh Mục lão thành, cử hành Thánh Lễ nơi nhà thờ Thánh Ambrogio ở ngoại thành Firenze (Bắc Ý). Nhà thờ thuộc về đan viện các nữ tu Biển Đức. Vị Linh Mục tuổi cao mắt kém, khi chịu lễ đã để sót lại nơi Chén Thánh một giọt rượu đã truyền phép, tức là Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Khi đổ rượu vào Chén Thánh để tráng, Cha Huguccion mới thấy là giọt rượu đã chuyển thành máu đỏ thẫm. Trong hai lần liên tiếp, Cha thấy giọt máu phân ra 3 phần đều nhau. Rồi 3 phần giọt máu kết hợp lại và nổi lên trên mặt rượu đổ vào để tráng Chén Thánh, giống như giọt dầu nổi lên trên mặt nước.

Cha Huguccion bàng hoàng xúc động. Lòng Cha trào dâng niềm kính trọng thánh thiêng. Cha bỗng bật lên khóc nức nở. Các nữ tu Biển Đức vội vàng chạy lên bàn thờ vì nghĩ rằng có lẽ vị Linh Mục cao tuổi bị mệt bất ngờ chăng. Nhưng khi lên đến nơi các Chị mới hiểu sự việc và kinh ngạc trước Phép Lạ Thánh Thể. Chị Taida - Nữ Đan Viện Trưởng - nhanh chân đi lấy một bình thủy tinh dùng để đựng Dầu Thánh và đưa cho vị Linh Mục. Cha Huguccion trang trọng đổ vào bình thủy tinh Giọt Máu Thánh cùng với phần rượu để tráng Chén Thánh. Sau đó, Cha lấy lại bình tĩnh và tiếp tục dâng hết Thánh Lễ.

Giọt Máu Thánh được kính cẩn đặt vào Nhà Tạm. Nhưng 3 ngày sau, một Phép Lạ Thánh Thể khác diễn ra. Xuyên qua bình thủy tinh, người ta trông thấy Giọt Máu Thánh giờ đây chuyển thành Tấm Thịt Thánh và treo lơ lửng bên trong bình thủy tinh, không chạm vào thành bình thủy tinh. Ngoài ra phần rượu chưa được truyền phép bỗng chuyển thành màu hồng rồi khô đi và biến mất, không để lại dấu vết gì cả.

Tiếng vang Phép Lạ Thánh Thể đồn ra khắp thành Firenze. Vị Giám Mục giáo phận lúc bấy giờ là Đức Cha Ardingo. Ngài cử nhiều Linh Mục đến nhà thờ Thánh Ambrogio để lấy bình thủy tinh đựng Phép Lạ Thánh Thể và đem về điều tra thật kỹ lưỡng. Sau đó Đức Cha giữ thánh tích Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ tại tòa giám mục.

Tuy nhiên sắp đến ngày mừng lễ Thánh Ambrogio (339-397), các nữ tu Biển Đức muốn xin Đức Giám Mục trao lại thánh tích. Các Chị nhờ các Linh Mục dòng Phanxicô đến tòa giám mục rước về. Thế là Thánh Thể Phép Lạ được long trọng rước về nhà thờ Thánh Ambrogio giữa tiếng hát chúc tụng các bài Thánh Thi và Thánh Ca của một đoàn ngũ đông đảo các tín hữu Công Giáo đạo đức và sốt sắng.

Về phần Đức Cha Ardingo, vị Giám Mục dửng dưng cứng cỏi và thiếu lòng yêu mến kính trọng đối với Phép Lạ Thánh Thể, ngài sớm bị chính Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể khiển trách. Ngay đêm sau đó trong giấc ngủ, Đức Cha Ardingo nghe một tiếng nói rõ ràng rót vào tai: “Hỡi giám mục, người tiếp rước Ta lạnh lùng và trả lại Ta cũng lạnh lùng trơ trụi!” Tiếng nói lập lại ba lần như thế. Vị giám mục giật mình thức giấc. Lời trách cứ khiến vị giám mục mở mắt tinh thần. Ngài hiểu ngay thái độ bất xứng của mình đối với Phép Lạ Thánh Thể trọng đại. Đức Cha Ardingo thật lòng ăn năn thống hối. Ngài lập tức đặt làm một Nhà Tạm bằng ngà chạm các mảnh mỏng bằng vàng và phủ khăn nhung màu đỏ thẫm. Đức Cha cho người mang Nhà Tạm đến nhà thờ các nữ tu Biển Đức để các Chị đặt vào Nhà Tạm Mình Thánh Phép Lạ Đức Chúa GIÊSU KITÔ.

Thế nhưng Mình Thánh Phép Lạ vẫn còn ở trong bình thủy tinh bình thường. Một lần nữa, chính Đức Mẹ MARIA lại can thiệp để Mình Thánh Chúa được cất giữ cách tương xứng. Đức Mẹ hiện ra trong giấc mơ với một thiếu nữ thuộc đan viện Thánh Ambrogio. Đức Mẹ truyền cho thiếu nữ báo cho Chị Margarita - nữ tu lo phòng thánh - biết: Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU vẫn chưa có nơi trú ngụ xứng đáng. Được ơn trên soi sáng, Chị Margarita hiểu ngay phải chuẩn bị một Chén Thánh thật đẹp thay cho bình thủy tinh đang đựng Mình Thánh Chúa. Sau khi đặt các nhà điêu khắc tài ba làm một Chén Thánh tuyệt mỹ, Đức Cha Ardingo đích thấn đến nhà thờ Thánh Ambrogio. Chính ngài đặt Mình Thánh Phép Lạ vào trong Chén Thánh mới rồi long trọng đặt vào Nhà Tạm.

2. PHÉP LẠ THÁNH THỂ TẠI REGENSBURG (NAM ĐỨC)

Thứ Năm Tuần Thánh 25-3-1255 một Linh Mục ở Regensburg, thuộc bang Bavière, Nam Đức, mang Mình Thánh Chúa cho một bệnh nhân hấp hối. Trên đường đi, khi ra tới cửa thành, Cha bỗng gặp một con lạch bị nước lũ tràn ngập, chỉ còn một tấm ván mỏng manh. Vừa đặt chân lên tấm ván, vị Linh Mục bị trợt té và làm văng bình đựng Mình Thánh Chúa. Trước cảnh tượng này, một nhóm tín hữu Công Giáo vội vàng chạy đến cứu giúp. Họ cố gắng vượt mức mới có thể vớt được Bánh Thánh. Mặc dầu đây là cuộc phạm thánh ngoài ý muốn, các tín hữu đạo đức vẫn cảm thấy đau lòng và quyết định cử hành lễ nghi phạt tạ bí tích Thánh Thể.

Ngay ngày hôm ấy, dân thành Regensburg khởi công xây một nhà nguyện tại chính nơi xảy ra tai nạn Mình Thánh Chúa bị rơi. Nhà nguyện nhỏ bằng gỗ thật đơn sơ. Khi nhà nguyện hoàn tất người ta liền đặt Mình Thánh Chúa và ngày 8-9-1255, Đức Cha Albert, giám mục sở tại, làm nghi thức cung hiến nhà nguyện. Nhà nguyện được dâng kính Đấng Cứu Thế - in honorem Salvatoris.

Kể từ sau khi nhà nguyện được thánh hiến, các tín hữu Công Giáo kéo đến đông đảo kính viếng nhà nguyện. Có lẽ chính vì lòng đạo đức tôn kính Mình Thánh Chúa của các tín hữu Regensburg mà Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể đã làm một phép lạ. Phép lạ xảy ra năm 1257 như dấu chứng khẳng định Đức Tin của các tín hữu Công Giáo đối với bí tích Tình Yêu Nhiệm Mầu. Câu chuyện diễn tiến như sau.

Một Linh Mục đến dâng Thánh Lễ nơi nhà nguyện. Vào lúc đọc lời truyền phép rượu, vị Linh Mục bỗng đâm ra nghi ngờ. Ngài phân vân tự hỏi:
- Làm sao lời do người phàm đọc lại có sức nhiệm mầu biến đổi rượu thành Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ được?
Tâm hồn vị Linh Mục thật sự bị bấn loạn bởi tư tưởng gây hoang mang cho niềm tin tuyệt đối vào sự hiện diện đích thật của Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể. Trong lúc do dự và không giơ cao Chén Thánh cho giáo dân thờ lạy thì vị Linh Mục bỗng nghe tiếng động nhẹ từ phía Cây Thánh Giá bên trên Nhà Tạm. Đôi tay của tượng Đức Chúa GIÊSU chịu đóng đanh từ từ tiến về phía vị Chủ Tế và giật lấy Chén Thánh giơ cao cho tín hữu thờ lạy Máu Thánh Chúa.
Trước phép lạ tỏ tường, vị Linh Mục liền quì sụp xuống. Niềm nghi nan giờ đây nhường chỗ cho nỗi lo âu kinh hoàng, cùng lúc nẩy sinh Đức Tin không lay chuyển. Vị Linh Mục khiêm tốn xưng thú lỗi lầm, công khai xin tha thứ và cảm động khóc ròng. Như dấu hiệu chứng nhận lòng thống hối và đức khiêm tốn của vị Linh Mục, Đức Chúa GIÊSU Cứu Thế hạ đôi tay xuống và đặt Chén Thánh vào đôi tay vị Linh Mục.

Kể từ sau phép lạ Thánh Thể, nhà nguyện trở thành nơi hành hương dấu ái của các tín hữu Công Giáo thành Regensburg cũng như của toàn nước Đức. Mỗi lần đến kính viếng nhà nguyện, các tín hữu thường quảng đại dâng cúng tiền bạc cũng như lễ vật.

Năm 1620 chính quyền thành phố khởi công xây cất một thánh đường lớn bên cạnh nhà nguyện nhỏ và nhà nguyện nhỏ cũng được sửa lại bằng đá. Đức Giám Mục giáo phận giao cho các Tu Sĩ dòng Thánh Augustino trông coi nhà thờ và nhà nguyện. Các Tu Sĩ có nhiệm vụ lo phần Phụng Vụ, đọc kinh nguyện và phục vụ các tín hữu hành hương. Các vị chu toàn bổn phận cho đến năm 1803 là năm bị tục hóa. Đến năm 1838 nhà thờ bị hư hại rồi bị tàn phá bình địa. Nhưng nhà nguyện nhỏ nơi diễn ra Phép Lạ Thánh Thể vẫn tiếp tục kiên cố với thời gian. Nhà nguyện được tu sửa và được trang hoàng thật đẹp. Ngày 18-9-1855 Đức Cha Valentino tái thánh hiến nhà nguyện.

Ngày nay nhà nguyện có bị cũ đi, nhưng Cây Thánh Giá với tượng Đức Chúa GIÊSU KITÔ làm phép lạ vẫn còn đó như dấu chứng Đức Tin kiên vững của các tín hữu Công Giáo Đức. Họ thường xuyên đến kính viếng nhà nguyện và thờ lạy Đức Chúa GIÊSU KITÔ Thánh Thể ẩn náu trong Nhà Tạm.

3. PHÉP LẠ THÁNH THỂ TẠI SAN-PIETRO DI PATERNO (NAM Ý).

Ngày 28-1-1772 tại làng San-Pietro di Paterno cách thành phố Napoli (Nam Ý) 2 ngàn dặm, xảy ra một vụ phạm thánh trầm trọng. Bọn gian phi lẻn vào nhà thờ ăn trộm 2 Bình Thánh đựng đầy Mình Thánh Chúa.

Mấy ngày sau, ông Pasquale Capozzi - một nông dân ở làng gần đó - trông thấy nơi đống phân bón bên cạnh lẫm lúa nhà ông có một chân của Bình Thánh bị đánh cắp. Tức tốc mọi người ra công tìm kiếm các dấu vết của Bánh Thánh. Nhưng tuyệt nhiên không thấy Bánh Thánh nào. Ai ai cũng nghĩ có lẽ nhóm gian phi đã thủ tiêu các Bánh Thánh hầu không để lại dấu vết nào .. Dần dần dân làng quên bẵng vụ trộm Mình Thánh Chúa.

Nhưng THIÊN CHÚA Quan Phòng xếp đặt cách khác.

3 tuần sau, vào chiều 19-2, Giuseppe Orefice 17 tuổi từ Napoli trở về Paterno. Khi rẻ vào đường cái từ Capodichino đến Casoria anh bỗng trông thấy một đám ruộng rực sáng trong nông trại của ông Pasquale Capozzi. Chiều hôm sau, anh cũng trông thấy quang cảnh tương tự. Anh lo sợ đem câu chuyện kể cho song thân nghe. Nhưng mọi người chế nhạo anh.

Sáng sớm hôm sau nữa, Giuseppe cùng với thân phụ là ông Angelo và em trai Giovanni 10 tuổi lên đường đến thành phố Napoli. Khi đi ngang cánh đồng của nông trại ông Capozzi, cảnh lạ tái xuất hiện. Cậu Giovanni nhìn thấy và reo vui. Giuseppe cũng trông thấy như em trai. Nhưng ông Angelo lại không thấy gì cả.

Câu chuyện đến tai 2 vị Linh Mục thuộc giáo phận Napoli, Cha Geromino và Cha Giacomo Guarino. Cùng với Cha Sở, vào đêm khuya 24-2, cả 3 vị đến nơi xảy ra hiện tượng lạ. Giuseppe cùng em trai Giovanni và một trẻ khác tên Thomas Piccini tháp tùng 3 Linh Mục. Đến nơi được một lúc thì cả 3 trẻ được trông thấy hiện tượng lạ. Ngoài 3 trẻ ra, không ai khác được trông thấy ánh sáng lạ. Mọi người đến nơi 3 trẻ chỉ và tìm xem có gì khác thường không. Nhưng không ai tìm ra điều gì khác lạ.

Tối hôm sau, Cha Giuseppe Lindinier cùng đi với 3 Linh Mục nói trên. Giờ đây 4 vị Linh Mục xác tín rằng, THIÊN CHÚA đã chọn các trẻ thơ để tỏ lộ các bí nhiệm. Vì thế các vị mang thêm 4 trẻ khác. Đến nơi được một lúc thì các thiếu niên trông thấy ánh sáng lạ bao quanh gốc cây bạch dương. Mọi người lại ra công tìm kiếm, nhưng không thấy gì đặc biệt.

Các Linh Mục bỏ ra về. Sau đó nhóm trẻ cũng theo gót các vị. Nhưng khi các trẻ ra đến đường cái thì đám đông nơi cánh đồng lại la ó ồn ào. Nhóm trẻ như bị sức thần lôi kéo vội vàng trở lui. Các trẻ cũng như bị sức thần ném ngã rạp xuống đất. Vừa khi lóc ngóc đứng dậy chúng lại bị luồng ánh sáng chiếu ra từ cây bạch dương làm lóa mắt. Rồi từ luồng sáng chói chang này một chim bồ câu cất cánh bay lên và biến mất.

Mọi người tức tốc đào bới mảnh đất chung quanh cây bạch dương. Bỗng cậu bé Thomas Piccini thấy một vật tròn trắng tinh nằm trên đám cỏ xanh. Đến gần thì thấy đó là Mình Thánh Chúa. Một người nhanh chân chạy đi tìm Cha Giacomo Guarino. Lúc ấy là 2 giờ sáng. Đến nơi, Cha Giacomo vô cùng cẩn trọng dùng tay bới đất tìm kiếm Mình Thánh Chúa. Cha thật an ủi khi tìm thấy 40 Bánh Thánh vẫn còn nguyên vẹn. Cha để ngay vào Bình Thánh và đặt Bình Thánh trên bàn thờ thô sơ vừa được dựng lên dưới chân cây bạch dương. Với giọng run run cảm động Cha cất tiếng hát Kinh Tạ Ơn THIÊN CHÚA - TE DEUM.

40 Bánh Thánh nằm dưới đất gần một tháng nhưng không mảy may hư hại, mặc dầu mùa đông giá lạnh với những cơn mưa tầm tã. Thêm vào đó, phần đất chạm tới Mình Thánh Chúa vẫn khô ráo. Tuy nhiên, dân làng chưa thỏa nguyện. Bởi lẽ khi vụ phạm thánh diễn ra, trong Nhà Tạm có đến 2 Bình Thánh chứa khoảng 100 Bánh Thánh. Vậy thì các Bánh Thánh còn lại bị chôn dấu nơi đâu?

Tối hôm sau đó, nhóm trẻ hướng dẫn cuộc tìm kiếm lại trông thấy ánh sáng lạ. Chúng vội báo tin và mời Cha Giacomo Guarino đến ngay. Mọi người tìm kiếm thật lâu nhưng không thấy gì. Bỗng chốc Giuseppe Orefice quì sụp xuống nơi mảnh đất cần phải đào bới. Cha Guarino dùng dao để bới cho nhanh. Cha bỗng nghe một tiếng động nhẹ như tiếng bẻ bánh và Cha thấy miếng đất như chiếc vung chụp bể ra. Trước mắt Cha xuất hiện hơn 50 Bánh Thánh trắng tinh, nguyên vẹn y như 40 Bánh Thánh tìm thấy tối hôm trước.

Diễn tả sao cho hết nỗi niềm hân hoan cùng lòng tri ân THIÊN CHÚA của dân làng Paterno. Họ long trọng rước Mình Thánh Chúa về Nhà Thờ. Tại đây một lần nữa mọi người cất tiếng hát Kinh tạ ơn TE DEUM.

(Père Eugène Couet, ”Les Miracles Historiques du Saint Sacrement”, Éditions D.F.T, Réédition 1998).



PHÉP LẠ THÁNH THỂ (V)


Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt

1. MÁU THÁNH NHUỘM ĐỎ KHĂN THÁNH VÀ KHĂN TRẢI BÀN THÁNH.

Boxtel là thành phố nhỏ nằm cách Bois-le-Duc 2 dặm bên nước Hòa-Lan. Nơi đây vào năm 1380 đã diễn ra một Phép Lạ Thánh Thể. Câu chuyện diễn tiến như sau.

Linh Mục Eloi Aecker quản nhiệm thánh đường Đức Chúa Thánh Thần ở Essche. Một hôm Cha đến dâng Thánh Lễ tại nhà thờ Thánh-Phêrô ở Bostel nơi bàn thờ dâng kính Ba Vua. Sau khi đọc Lời Truyền Phép Bánh và Rượu, không rõ vì lúng túng thế nào, Cha làm đổ Chén Thánh. Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU đổ ra. Máu Thánh ban đầu mang màu rượu nho trắng, bỗng biến nhanh thành màu đỏ thắm của Máu, ghi rõ vết trên Khăn Thánh và khăn trải bàn thánh. Thật ra trước đó, tận nơi kín ẩn tâm hồn, Cha Eloi Aecker bị dằn vặt bởi nỗi nghi ngờ về sự hiện diện đích thực của Đức Chúa GIÊSU KITÔ trong Hình Bánh và Hình Rượu sau khi vị Linh Mục đọc Lời Truyền Phép. Giờ đây nhìn thấy tận mắt Rượu Thánh mang màu đỏ thắm của máu tươi, Cha cảm thấy kinh hoàng. Cùng lúc, Đức Tin của Cha được củng cố.

Tuy nhiên, Cha Eloi Aecker muốn giữ kín Phép Lạ Thánh Thể, không tỏ lộ cho ai biết. Sau Thánh Lễ, Cha kín đáo mang Khăn Thánh và Khăn trải Bàn Thánh về nhà. Cha dự định giặt sạch các dấu vết Máu in trên 2 Khăn Thánh rồi sẽ mang trả lại Nhà Thờ.

Nhưng càng giặt Cha càng cảm thấy bàng hoàng sợ hãi. Bởi lẽ, các vết Máu Thánh vẫn giữ nguyên trên 2 Khăn Thánh. Cha vội mang 2 Khăn Thánh ra con suối bên cạnh để giặt. Suối này chảy ra bờ sông Dommel. Cha thầm nghĩ: Có lẽ nước suối chảy sẽ có sức mạnh tẩy sạch các vết Máu in rõ nơi 2 Khăn Thánh. Nhưng hoài công. Các vết Máu vẫn giữ nguyên màu sắc như ban đầu. Cha Eloi Aecker lại tìm cách khác: sau khi giặt Cha đem phơi 2 Khăn Thánh thật lâu ngoài nắng. Cha làm như thế rất nhiều lần, nhưng vô ích. Mặc dầu thế, Cha vẫn không tiết lộ Phép Lạ Thánh Thể. Mãi đến lúc gần sinh thì, trên giường dọn mình chết, Cha mới trình bày mọi chi tiết liên quan tới Phép Lạ Thánh Thể cho Cha Giải Tội biết, trước sự hiện diện của 2 nhân chứng.

Sau khi Cha Eloi Aecker qua đời, Phép Lạ Thánh Thể được công bố. Kể từ đó tín hữu Công Giáo thành Boxtel cũng như toàn vùng được củng cố trong Đức Tin và được tăng thêm lòng sùng kính đối với bí tích Thánh Thể. Họ lũ lượt kéo đến kính viếng 2 Khăn Thánh có in dấu Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Tín hữu âu yếm đặt tên cho thánh tích Thánh Thể là Khăn Máu-Thánh thành Boxtel. Nhà thờ lưu giữ 2 Khăn Thánh trở thành địa điểm hành hương nổi tiếng nhất trong vùng.

Lòng sùng kính của các tín hữu Công Giáo Hòa Lan đối với Phép Lạ Thánh Thể thành Bostel đã được Đức Chúa GIÊSU thưởng công bội hậu. Các tín hữu hành hương nhận được rất nhiều phép lạ. Nhiều người được chữa khỏi bệnh hoạn tật nguyền. Trên tường nhà thờ gắn đầy bảng đá ghi ơn. Các nạn chống do các tín hữu khỏi bệnh để lại nhiều đến độ người ta phải đem đốt đi.

Các tín hữu Công Giáo còn đi xa hơn trong Đức Tin đối với Phép Lạ Thánh Thể. Họ uống nước nơi con suối Cha Eloi Aecker đã giặt Khăn Thánh. Với lời khẩn cầu tha thiết, nhiều người cũng được khỏi bệnh hoặc được giải thoát khỏi ma quỉ ám hại.

Tâm tình các tín hữu sùng kính đối với Phép Lạ Thánh Thể kéo dài trong vòng hai thế kỷ, cho đến lúc các bè rối nổi lên chống lại Giáo Hội Công Giáo. Để gìn giữ khỏi các vụ phạm thánh, các tín hữu Công Giáo đem Khăn Máu-Thánh thành Boxtel dấu ẩn nơi kín đáo an toàn. Sau đó họ đưa Khăn Thánh về thành Bois-le-Duc rồi về đan viện Thánh-Micae ở Anvers. Sau cùng nhà thờ Hoogstraten được chọn làm nơi cất giữ thánh tích Phép Lạ Thánh Thể kể từ ngày 20-5-1652.

Bao thế kỷ đã trôi qua, nhưng Khăn Máu-Thánh thành Boxtel vẫn giữ nguyên vẹn không bị hư hại hay biến đổi với thời gian.

2. XÚC PHẠM ĐẾN THÁNH THỂ: BỊ TRỪNG PHẠT

Sau nhiều năm phá rối Anh quốc bằng những luận cứ độc hại nhằm đánh tan nguồn gốc thánh thiêng của Giáo Hội Công Giáo và tín điều bất khả ngộ của Đức Giáo Hoàng, vào năm 1381, ông tổ lạc giáo Wiclef John (1320-1384) bắt đầu công khai xúc phạm đến bí tích Thánh Thể. Ông bác bỏ Đức Tin và công kích giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo liên quan đến việc Truyền Phép. Ông tuyên truyền:

- Bản chất của bánh và rượu vẫn giữ nguyên sau khi vị linh mục đọc lời Truyền Phép. Đức Chúa GIÊSU KITÔ quả thật không hiện diện thực sự trong bí tích Thánh Thể. Vì thế, Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể không xứng đáng cho chúng ta tôn kính và thờ lạy!

Wiclef John còn cả gan nói lộng ngôn:

- Loài vật đứng hàng thứ yếu sau loài người, vẫn xứng đáng cho chúng ta dành mọi tôn kính hơn là “Bánh” sau khi được “Truyền Phép” trong Thánh Lễ!

Điều đáng buồn là lạc thuyết của Wiclef đã gặp được nhiều đồ đệ ngông cuồng của vương quốc Anh thời đó. Xin trưng dẫn một trường hợp điển hình.

Một thợ may chuyên nghiệp tên John giao trọn linh hồn và xác cho bè rối Wicléfisme. Ông trở thành người cuồng tín số một của lạc giáo. Ông dồn mọi nhiệt huyết cho việc loan báo tà thuyết. Ông tuyên truyền tại tư gia. Ông thuyết giảng cho đám đông dân chúng. Chính trong một buổi rao truyền lạc giáo nơi công cộng mà ông John bị giáo quyền bắt giam. Người ta đưa ông ra xử nơi tòa án của nhà thờ Thánh Phaolo ở thủ đô Luân-Đôn.

Đức Cha Thomas d'Arundel, Tổng Giám Mục Canterburry bấy giờ, tra vấn bị cáo liên quan đến Đức Tin của bị cáo đối với bí tích Thánh Thể. Ông John đáp ngay không chút do dự:

- “Bánh” được “Truyền Phép” chỉ là “bánh” được “chúc lành”, không hơn không kém. Tôi xin quả quyết như thế và tôi cũng trọn lòng tin tưởng như vậy!

Mặc cho mọi lý lẽ vững mạnh nhất vẫn không thuyết phục và lay chuyển được tâm trí ông lạc giáo John. Sau cùng, Đức Tổng Giám Mục Thomas truyền cho ông John phải sấp mình thờ lạy Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Ông John vẫn ngoan cố đáp:

- Tôi thà thờ lạy con nhện, cho dù đó là con vật đáng ghê tởm nhất, còn hơn quì gối trước “Bánh Thánh Thể” của các ông!

Trời Cao tức khắc đáp lại thách thức “động trời” của ông lạc giáo. Ngay lúc ấy, mọi người có mặt nơi phiên xử đều trông thấy một con nhện khổng lồ khủng khiếp rơi từ trần nhà thờ xuống trước mặt ông John. Con nhện rơi thẳng trên đôi môi kẻ vừa nói lời lộng ngôn. Chưa hết, con nhện tìm mọi cách đi thẳng vào miệng ông John. Phải khó nhọc lắm người ta mới kéo con nhện ra khỏi miệng ông John.

Sự kiện trên đây diễn ra trước sự chứng kiến của nhiều nhân vật đạo đời thuộc vương quốc Anh. Ngoài các vị Giám Mục Công Giáo còn có sự hiện diện của ông Edmond, công tước miền York và ông Thomas d'Oxone, quan chưởng ấn của triều đình. Tất cả kinh hoàng trước sự trừng phạt nhãn tiền của THIÊN CHÚA đối với kẻ phạm thượng. Đức Tổng Giám Mục Thomas d'Arundel liền đứng lên thuyết giảng về sự hiện diện thật sự của Đức Chúa GIÊSU KITÔ trong Hình Bánh và Hình Rượu sau khi vị Linh Mục đọc lời “Truyền Phép” trong Thánh Lễ.

3. TỪ ĐỒ ĐỆ LẠC GIÁO ĐẾN HIỆP SĨ ĐỨC CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ

Năm 1382 diễn ra Công Nghị Luân-Đôn, dưới quyền chủ tọa của Đức Cha Guillaume Courtenay. Công Nghị bác bỏ và kết án các lý thuyết của bè rối Wicléfisme. Trong những ngày Công Nghị nhóm họp, giáo quyền thủ đô Luân-Đôn tổ chức cuộc rước kiệu Thánh Thể trọng thể với mục đích đền bù phạt tạ những lộng ngôn xúc phạm đến Đức CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ. Đức Giám Mục Guillaume Courtenay cũng tham dự cuộc rước kiệu. Ngài đi chân không, cùng với toàn thể hàng giáo sĩ và tất cả các tín hữu Công Giáo trong giáo phận, gồm đủ mọi thành phần xã hội với tuổi tác khác nhau, từ già đến trẻ. Mọi người muốn phạt tạ Thánh Thể Đức Chúa GIÊSU KITÔ bằng nước mắt và bằng lời nguyện cầu tha thiết. Xin THIÊN CHÚA nhân lành tha thứ và ban ơn hoán cải cho các tín hữu lầm lẫn đi theo bè rối Wicléfisme.

Hôm sau cuộc rước kiệu, ông Cornélius Glovius đến tham dự Thánh Lễ nơi tu viện các Anh Em Giảng Thuyết dòng thánh Đa-Minh. Ông Cornélius Glovius là hiệp sĩ nổi tiếng của vương quốc Anh vừa là thành viên cuồng nhiệt của bè rối. Người ta không rõ lý do nào thúc đẩy ông đến dự Thánh Lễ, chỉ biết rằng, chính nơi đây THIÊN CHÚA chờ đợi ông. Vào lúc Linh Mục giơ cao Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU cho mọi người thờ lạy, ông Cornélius không thấy gì khác ngoài Tấm Bánh Trắng. Nhưng khi vị Linh Mục phân chia Bánh Thánh, ông hiệp sĩ lạc giáo trông thấy giữa các ngón tay vị Linh Mục rõ ràng ba Miếng Thịt, chứ không phải hình dạng Bánh. Rồi khi vị Linh Mục cầm một phần Thánh Thể và giơ cao bên trên Chén Thánh thì phần Thánh Thể ấy lại trở về với hình dạng Bánh Thánh, nhưng mang chữ GIÊSU viết bằng máu.

Hiệp sĩ Cornélius Glovius là người duy nhất được đặc ân trông thấy hiện tượng lạ trên đây. Bởi vì, khi ông chất vấn các đầy tớ tháp tùng ông thì những người này quả quyết họ không trông thấy gì.

Ngày hôm sau, nhằm Chúa Nhật lễ trọng kính THIÊN CHÚA Ba Ngôi, một vị Linh Mục thời danh thuyết giảng trước công chúng tại nhà thờ Thánh Phaolô. Ông Cornélius Glovius cũng đến đây và xin vị Linh Mục kể lại cho đám đông nghe hiện tượng lạ chính ông được diễm phúc chứng kiến ngày hôm trước. Sau lời kể của vị giảng thuyết, ông Cornélius Glovius liền đứng lên và làm chứng cho những lời kể của vị Linh Mục là đúng sự thật. Ông còn quả quyết thêm:

- Chính THIÊN CHÚA can thiệp để biến đổi con tim chai cứng của tôi thành con tim khiêm tốn. Tôi xin lớn tiếng tuyên xưng rằng: tôi tin vững vàng nơi sự hiện diện thật sự của Đức Chúa GIÊSU KITÔ trong Bí Tích Thánh Thể.

Tất cả các tín hữu Công Giáo có mặt nơi nhà thờ Thánh Phaolô ở thủ đô Luân-Đôn hôm ấy cảm động và vui mừng không kể xiết. Bởi vì, mới mấy ngày trước đây, ông còn là một đồ đệ cuồng tín trung thành của lạc thuyết Wicléfisme. Vậy mà giờ đây chỉ một sớm một chiều ông trở thành người bênh vực và là hiệp sĩ của Đức Chúa GIÊSU KITÔ Thánh Thể. Từ đó, với lý luận vững chắc đi kèm cuộc hoán cải công khai, ông Cornélius Glovius trở thành một trong những kẻ đánh bại các luận cứ sai lầm của bè rối Wicléfisme.

(Père Eugène Couet, ”Les Miracles Historiques du Saint Sacrement”, Éditions D.F.T, Réédition 1998).



PHÉP LẠ THÁNH THỂ (VI)


Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt

THÁNH NỮ CHIARA ASSISI VÀ CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ
Thánh nữ Chiara (1193-1253) thành Assisi sống đồng thời với thánh Phanxicô (1182-1226), cũng thành Assisi (Trung Ý). Chiara đã nối gót thánh Phanxicô trên con đường yêu chuộng sự đơn sơ và nghèo khó. Chính thánh nữ đã thành lập dòng các Nữ Tu Kín Clarisses.

Thánh nữ Chiara có lòng đặc biệt yêu mến Chúa GIÊSU Thánh Thể. Khi viết cuộc đời thánh nữ, không sử gia nào bỏ sót câu chuyện thánh nữ Chiara đã đuổi quân giặc hồi giáo chạy tán loạn, nhờ Chúa GIÊSU Thánh Thể.

Vào năm 1243 - tức 10 năm trước khi thánh nữ Chiara qua đời - một nhóm quân hồi giáo, do tên trùm Vitale d'Aversa cầm đầu, nhất quyết xâm lăng Đan viện các nữ tu Kín Clarisses ở San Damiano (Trung Bắc Ý).

Đan viện thinh lặng, an bình, nghèo khó của các nữ tu thiên thần, bất ngờ bị phá rối vì những tiếng chửi rủa, gào thét, đe dọa của nhóm người hồi giáo quá khích và khát máu. Họ muốn xâm phạm nơi thánh cũng như những người thánh trú ẩn trong đan viện. Vì biết rõ dụng ý của họ nên một người dân thành Assisi đã tức tốc báo tin cho các nữ tu biết. Các nữ tu xôn xao hốt hoảng. Như đàn gà con ngơ ngác, các nữ tu vội chạy đến phòng Viện Mẫu Chiara. Lúc ấy thánh nữ Chiara đang phủ phục cầu nguyện. Nghe tiếng động, thánh nữ vội đứng lên để tiếp đón đàn con run rẩy sợ hãi. Thánh nữ Chiara điềm tĩnh ra lệnh:

- Tất cả các con phải xếp hàng trong trật tự và lòng tin, đi xuống nhà nguyện, vừa đi vừa giữ thinh lặng theo luật dạy. Bởi vì, không có bất cứ lý do gì cho phép chúng ta được phá luật!
Các nữ tu vâng lời, run rẩy đi xuống nhà nguyện. Thánh nữ Chiara đi sau cùng.

Ngôi nhà nguyện thô sơ chỉ được chiếu sáng bởi hai ngọn đèn dầu. Một ngọn trước Nhà Tạm và một ngọn nơi các nữ tu quỳ hát kinh Thần Vụ. Hai ngọn đèn tuy nhỏ, nhưng đủ sức tỏa sáng và làm tăng nét linh thiêng của nơi thánh. Ngọn đèn nhắc nhở sự hiện diện thật sự của Chúa GIÊSU, ngự trong Bánh Thánh nơi Nhà Tạm.

Các nữ tu sốt sắng cầu nguyện. Từ bên ngoài vọng vào những tiếng la hét ầm ĩ. Một nữ trợ sĩ hốt hoảng chạy thẳng vào nhà nguyện. Chị dừng lại nơi ngưỡng cửa và nói lớn: “Mẹ ơi, họ tới trước cửa rồi!” Nghe thế, mọi người gập mình xuống như linh cảm giờ sau cùng đã điểm. Các nữ tu hoảng sợ, nhưng Mẹ Bề Trên Chiara thì không. Mẹ bình tĩnh ra đứng giữa nhà nguyện và nói:

- Các con đừng sợ. Họ chỉ là một nhóm ít người và ở bên ngoài đan viện. Còn chúng ta, chúng ta đang ở đây, bên trong nhà nguyện, và với Chúa GIÊSU. Các con nên nhớ lại lời Ngài phán: “Các con không bị đụng đến một sợi tóc!” Chúng ta là những chim bồ câu của Ngài. Ngài sẽ không để cho những kẻ hung dữ xúc phạm đến chúng ta ..

Bên ngoài tiếng la hét mỗi lúc một vang to, át cả tiếng nói nhẹ nhàng của mẹ bề trên Chiara. Thấy rõ lời nói của mình vẫn chưa đủ sức trấn an các Nữ Tu Kín quá sợ hãi, thánh nữ Chiara bèn thưa chuyện trực tiếp với Chúa GIÊSU Thánh Thể:

- Lạy Chúa GIÊSU dịu hiền của con, xin tha thứ cho Chiara tội nghiệp này, nếu con dám đặt tay vào nơi mà chỉ mình vị Linh Mục mới được đụng tới. Nhưng ở đây chỉ có Chúa và chúng con thôi. Và một người trong chúng con phải thưa với Chúa: “Xin đến”. Đôi bàn tay con đã được nước mắt tẩy luyện, nên chúng có thể chạm đến ngai tòa Chúa.

Cầu nguyện xong, thánh nữ Chiara đi thẳng tới Nhà Tạm và trân trọng cầm lấy Bình Thánh. Thánh nữ giơ cao Bình Thánh và từ từ ra khỏi nhà nguyện, vừa đi vừa cất hát Thánh Vịnh. Các nữ tu khác theo sau. Ra tới cửa, Mẹ Chiara nói với chị trợ sĩ canh cổng: “Mở cửa ra đi con”. Chị canh cổng run rẩy đáp lại: “Nhưng thưa mẹ, họ đang ở ngoài kìa! Mẹ không nghe tiếng họ la hét sao?” Mẹ Chiara điềm tĩnh lập lại: “Mở cửa ra đi con” – “Không được đâu mẹ ơi! Họ sẽ tức tốc đột nhập vào nhà!”. Lần này, mẹ Chiara dùng quyền bề trên nói: “Mở cửa ra. Đây là lệnh truyền, con phải tuân phục!” Chị canh cổng vừa mở cửa vừa run. Các Nữ Tu Kín khác vội vàng phủ chiếc khăn che mặt và sẵn sàng đối diện với cái chết ..

Khi cánh cửa từ từ mở ra, mẹ Chiara đi hai ba bước ra ngoài, tay giơ cao Bình Thánh đựng Mình Thánh Chúa GIÊSU. Bình Thánh là tấm khăn duy nhất che kín khuôn mặt mẹ. Trong khi đó, đôi mắt mẹ Chiara chỉ dán chặt vào Bình Thánh mà thôi. Dáng điệu mẹ Chiara trông trang nghiêm và đẹp như một thiên thần. Nhưng đối với nhóm quân hồi giáo thì mẹ Chiara lại xuất hiện như một nữ tướng, uy linh và khủng khiếp! Do đó, khi trông thấy cánh cửa vừa hé mở, nhóm hồi giáo reo hò đắc thắng, chạy ùa vào cửa. Nhưng tức khắc họ phải đứng khựng lại. Rồi không hiểu sức thần nào xua đuổi, họ thất kinh hồn vía, vừa la rú, vừa tung nhau bỏ chạy như điên

Thế là mẹ Chiara cùng các chị nhà Kín Clarisses vui mừng vội vàng đóng kín cửa lại, rồi vừa đi vừa hát kinh TE DEUM cảm tạ Thiên Chúa. Các chị đi trong nghiêm trang và trật tự. Mẹ Chiara giải thích:

- Chúa GIÊSU Thánh Thể chiến thắng tất cả. Thánh Thể là sức mạnh của Thiên Đàng và của trần gian, bao lâu trần gian còn cần những trợ giúp. Nhờ công nghiệp vô biên của Mình Máu Thánh Chúa GIÊSU KITÔ, các tín hữu Công Giáo sẽ luôn luôn chiến thắng được kẻ thù! ..

PHÉP LẠ THÁNH THỂ TẠI LỘ ĐỨC
Kể từ cuộc hành hương toàn quốc Pháp đầu tiên vào năm 1888 các cuộc hành hương Lộ Đức nối tiếp đều mang một nét đặc thù. Đó là các cuộc rước kiệu Thánh Thể trọng thể, bày tỏ lòng tôn sùng kính yêu của các tín hữu Công Giáo đối với Chúa GIÊSU KITÔ ẩn mình trong bí tích Thánh Thể.

Thật ra, Đấng Cứu Thế - Chúa GIÊSU KITÔ - không bị dân chúng lãng quên trong lúc họ biểu lộ lòng ngưỡng mộ đối với Hiền Mẫu Ngài, Nữ Vương Rất Thánh MARIA. Thêm vào đó, nếu Từ Mẫu Thiên Quốc làm phép lạ chữa lành bệnh tật phần hồn lẫn phần xác, chính là nhờ quyền năng vô biên của Con Dấu Ái Mẹ, Chúa GIÊSU KITÔ. Xác tín này thật rõ ràng, bởi lẽ, các tín hữu hành hương luôn luôn cảm nhận sự hiện diện trìu mến của Đấng Cứu Độ nơi Hang Đá Lộ Đức tràn đầy phúc lành. Tất cả đều ý thức rằng: Chỉ mình Thiên Chúa là Chủ Tể mọi việc kỳ diệu - qui facit mirabilia solus.

Thế nhưng, năm 1888 là năm đáng ghi nhớ nhất. Nữ Trinh Rất Thánh MARIA tự ẩn mình đi để làm nổi bật nét đẹp uy linh cao cả của Chúa GIÊSU KITÔ, Người Con Chí Thánh ẩn mình trong bí tích Thánh Thể. 18 thế kỷ sau cuộc đời dương thế của Đức GIÊSU KITÔ nơi Thánh Địa, các tín hữu hành hương Lộ Đức như sống lại quang cảnh ghi trong Phúc Âm: Chúa Cứu Thế khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem, hàng ngàn người hiện diện đã lớn tiếng tung hô Hosanna - Vạn Tuế Con Vua Đavít. Và Chúa GIÊSU đi qua, vừa chúc lành đám đông vừa chữa họ khỏi tất cả bệnh hoạn tật nguyền, thể theo ước nguyện thầm kín của từng người thành khẩn kêu cầu cùng Ngài.

Tờ Nhật Ký Lộ Đức - Le Journal de Lourdes, số xuất bản tháng 8 năm 1888 đã tường thuật tỉ mỉ biến cố trọng đại như sau.

Lời kinh Magnificat - Linh hồn con ngợi khen Chúa - là lời kinh có âm vang thật đặc biệt tại Lộ Đức, bởi vì, đó là lời kinh được các tín hữu diễn tả lòng cảm tạ sâu xa về các ân huệ nhận lãnh. Và ngày 21-8-1888, lời kinh Magnificat này mang trọn chiều kích ngợi khen cùng tri ân của đoàn người hành hương. Phải thành thật thú nhận rằng, nếu được phép soi thấu tâm tư kín ẩn của từng người, hẳn chúng ta sẽ đọc được phép lạ Đức Mẹ ban trên bình diện thiêng liêng. Thế nhưng, ngày hôm ấy, Đức Mẹ như giả điếc làm ngơ trước mọi lời khấn cầu của con cái Mẹ, đang lê lết vì các khổ đau phần xác. Không một bệnh nhân nào được Đức Mẹ chữa lành.

Thêm vào đó, ngày đầu tiên của cuộc hành hương toàn quốc Pháp đã kết thúc trong thảm sầu như bầu khí ảm đạm của cả ngày. Vào lúc đoàn tín hữu xếp hàng đôi, tay cầm nến sáng, chuẩn bị cuộc rước đuốc kính Đức Mẹ Lộ Đức, thì hỡi ôi, trời bỗng lên cơn giông tố bão bùng, mưa đổ như trút nước. Mọi người nhanh nhân tìm chỗ trú ẩn .. Đâu ai ngờ rằng, thử thách này tiên báo ngày mai tươi sáng hơn, không xóa mờ trong tâm trí.

Chứng kiến cảnh tượng buồn thương của các tín hữu hành hương - tuy vẫn giữ vững lòng tin cậy mến -, Trời Cao đã gợi ý cho một linh mục thánh thiện. Cha thầm nghĩ: “Tại sao không tổ chức một buổi rước kiệu Mình Thánh Chúa, mang Chúa GIÊSU Thánh Thể đi qua giữa đoàn bệnh nhân? Tại sao không khuyến khích các tín hữu dâng lên Chúa GIÊSU Thánh Thể lời tung hô đi kèm lời khẩn cầu chữa lành bệnh tật phần xác, y như khi Chúa GIÊSU còn sống nơi dương thế?”

Lời đề nghị của vị linh mục thánh thiện được Cha Picard hân hoan tiếp nhận. Cha tức khắc thu thập những câu chúc tụng, các lời van xin ghi trong Phúc Âm rồi in trên một tờ giấy khổ nhỏ và phân phát cho các tín hữu hành hương. Đúng 4 giờ chiều ngày 22-8-1888, Mình Thánh Chúa GIÊSU được long trọng rước ra từ Đền Thánh, đi giữa đoàn tín hữu hành hương tay cầm nến sáng. Sau khi đoàn rước đi qua Hang Đá Đức Mẹ Lộ Đức, các lời khẩn cầu bắt đầu vang lên với trọn nhiệt tâm, nhiệt huyết, không thể nào diễn tả cho hết.

Khi đầu đoàn rước tiến ra bờ sông Gave, mọi người hiện diện cùng có chung một tư tưởng: “Lộ Đức không còn là Lộ Đức mà là thành Giêrusalem thời Chúa GIÊSU KITÔ. Chúa Cứu Thế đang xuất hiện sống động và khải hoàn với những công trình kỳ diệu .. Suốt đời, tôi sẽ không bao giờ quên tiếng kêu, quên đám đông cùng với các lời khẩn thiết hòa lẫn nước mắt chan hòa tuôn rơi”.

Một luồng gió thánh linh đầy phấn khởi thổi trên đầu mọi tín hữu hiện diện. Từ trên các băng-ca, các chiếc giường, các xe lăn, những bệnh nhân đang đau đớn nơi thể xác, đồng thanh van xin. Hòa nhịp với lời cầu thống thiết, toàn thể các tín hữu hành hương cũng cất tiếng kêu xin, lập lại lời của người bất toại và người mù thành Giêricô thưa cùng Chúa GIÊSU rằng: “Lạy Chúa, nếu Ngài muốn, xin Ngài chữa con lành bệnh!”

Ngay lúc ấy, trước Hang Đá Đức Mẹ, ở giữa đám đông, ở giữa tình thương trìu mến, ở giữa những gì thâm sâu nhất, cao cả nhất trong tâm hồn con người, trước mặt Con Thiên Chúa phúc lành, trước sự chứng kiến của toàn dân nước Pháp, 8 người bệnh nằm liệt giường được chữa khỏi và đứng thẳng lên: “Surge, tolle grabatum tuum et ambula - Hãy đứng dậy, vác giường mà về nhà đi!”, Mát-thêu, chương 9 câu 6.

Làm sao diễn tả cho hết quang cảnh cảm động trên đây? Khi lời kinh Magnificat long trọng cất lên, vang dội và chiến thắng, không ai cầm được nước mắt cảm tạ và tri ân.

Người ta dễ dàng tưởng tượng ra quang cảnh đầy phấn khởi của buổi lễ cử hành ngay đêm hôm ấy. Cuộc rước đuốc diễn ra trong vòng hai tiếng đồng hồ, làm sáng rực toàn khu vực Trung Tâm Thánh Mẫu Lộ Đức: từ Hang Đá cho đến Đền Thánh và mọi lối đi dọc theo bờ sông Gave. Sau khi hát Kinh Tin Kính, đoàn tín hữu hành hương vang lên những lời chúc tụng như: Vạn tuế Chúa GIÊSU KITÔ! Vua Chiến Thắng! Vạn Tuế Đức Bà Lộ Đức! Hoan hô Đức Thánh Cha Lêô 13!

Sáng hôm sau 23-8-1888, muôn người như một, chỉ mở miệng để nói về cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa và biến cố xảy ra vào buổi chiều hôm trước. Vì thế, mỗi người tự nguyện sẽ tham dự cuộc kiệu Mình Thánh Chúa vào lúc 4 giờ chiều hôm ấy. Nói thế để hiểu rằng, toàn khu vực Trung Tâm Thánh Mẫu Lộ Đức đông chật tín hữu hành hương. Hàng trăm bệnh nhân nằm trên cáng được khiên ra đặt trên lối đi.

Khi Chúa GIÊSU Thánh Thể xuất hiện, tức khắc tái diễn quang cảnh xảy ra vào buổi chiều hôm trước. Hay nói đúng hơn, mọi tâm hồn như sốt sắng hơn, cảm động hơn và phấn khởi tươi vui hơn. Mọi người cất tiếng hát, đọc kinh và kêu cầu với những lời ghi trong Phúc Âm: “Lạy Chúa GIÊSU, xin thương chữa lành chúng con! Lạy Chúa GIÊSU, kẻ Thầy yêu đang ốm nặng!” Người đau bệnh cũng như kẻ lành mạnh, tất cả đều giơ tay khẩn thiết hướng về phía Mình Thánh Chúa.

Thế là, Chúa GIÊSU Thánh Thể Lộ Đức liền ra tay ban phúc lành, đáp trả lời kêu cầu của mọi người thiện tâm. Một chủng sinh bị bệnh đang ở giai đoạn cuối đời, liền đứng thẳng lên khỏi chiếc cáng đang nằm, và mạnh dạn tiến bước theo sau chiếc kiệu Mình Thánh Chúa. Rồi một bệnh nhân thứ hai và một bệnh nhân thứ ba, cũng đứng lên hân hoan bước theo sau Chúa GIÊSU Thánh Thể.

Các nhân viên khiêng cáng phải khó nhọc lắm mới giữ được các bệnh nhân nằm im. Mọi người như cuốn hút vào bầu khí hân hoan phúc lành, cảm tạ và tri ân. Khi ba người khỏi bệnh tiến gần đến Hang Đá Lộ Đức giữa tiếng vỗ tay vang dội, thì những vụ khỏi bệnh khác được tiếp diễn. Một người, hai người, rồi nhiều người được lành mạnh, đứng thẳng lên và vui tươi nhập bọn với anh chị em khác.

Ôi, diễn tả sao cho cùng những tâm tình kín ẩn của mọi người hiện diện lúc ấy. Không ai bảo ai, tất cả đồng thanh cất tiếng tung hô: “Hosanna - Vạn tuế Con Vua Đavít! Chúc tụng Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến!”

Kể từ sau biến cố trọng đại ấy, hàng năm khi diễn ra các cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa nơi Hang Đá Lộ Đức, các tín hữu hành hương như cảm thấy lòng mình tràn ngập lòng tin/cậy/mến đối với Mình Thánh Chúa GIÊSU và không ngớt lời chúc tụng ngợi khen. Và Chúa GIÊSU Thánh Thể cũng rộng tay ban phát các ơn lành hồn xác cho tất cả những ai cầu khẩn Ngài với trọn lòng tin/cậy/mến.


PHÉP LẠ THÁNH THỂ TẠI PERPIGNAN

Ngày 15-9-1793, trong tuần bát nhật lễ Sinh nhật Đức Mẹ, ngôi làng bé nhỏ Pézilla-de-la-Rivière, thuộc giáo phận Perpignan, miền Nam nước Pháp, đã vui mừng trông thấy thánh đường được mở cửa. Lý do là vì cuộc cách mạng 1789 vẫn còn ghi đậm nét kinh hoàng. Các Linh Mục, Giám Mục, Hồng Y - những vị trung thành với Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ - bị bắt, bị giết hoặc bị lưu đày. Đoàn chiên vắng bóng chủ chăn, bơ vơ tang tác thật tội nghiệp thảm thương.

Linh Mục Jacques Pérone, cha sở họ đạo, từ nơi trú ẩn, can đảm trở về giáo xứ. Cha muốn lợi dụng trong chớp nhoáng khoảng thời gian yên tĩnh để mang lại cho đoàn chiên niềm an ủi được tham dự thánh lễ. Được mật báo, toàn thể tín hữu có mặt nơi nhà thờ. Mọi người vừa sốt sắng vừa trang nghiêm. Không thể diễn tả hết lòng hân hoan của bổn đạo. Nhưng niềm vui chỉ diễn ra vỏn vẹn 3 hôm. Ngày 17-9-1793, với con tim đau thắt, cha Jacques Pérone đành lên đường trở về nơi lưu đày tận bên nước Tây-Ban-Nha. Trước khi khuất hẳn, cha đau đớn quay lại nhìn giáo xứ thân yêu lần cuối. Đôi mắt đẫm lệ, cha buột miệng kêu lên: “Ôi, nếu có thể, thì không gì mà tôi không đánh đổi để chỉ trở lại đó một khắc đồng hồ thôi!”

Lời thì thào của cha Jacques Pérone đã lọt tai một thiếu nữ can đảm, đạo đức và khiêm tốn. Đó là cô Rose Llorens. Cô thầm đoán Bánh Thánh còn bị bỏ quên trong Nhà Tạm ở nhà thờ. Với lòng tin tưởng vững vàng nơi sự trợ giúp của Thiên Chúa, cô cương quyết tự nguyện sẽ giải thoát Chúa GIÊSU Thánh Thể khỏi các bàn tay xúc phạm của quân cách mạng vô luân vô thần.

.. Ngày 26-12-1793 ông Jean Bonafos về nhậm chức tân thị trưởng Pézilla. Ông là kẻ hiền đức và là người kính sợ Thiên Chúa. Thấy cơ hội thuận tiện, cô Rose trình bày ước nguyện với tân thị trưởng. Ông Jean Bonafos tức khắc chấp thuận. Ngày 7-2-1794, cùng với một người thứ ba, ông thị trưởng và cô Rose đến nhà thờ. Ông thị trưởng tự tay mở cửa Nhà Tạm. Quả thật, ông trông thấy Bánh Thánh lớn nằm trong Mặt Nhật và 3 Bánh Thánh nhỏ còn nguyên với Bánh Thánh thứ tư bẻ đôi. Cả 4 Bánh Thánh nhỏ đặt trong Bình Thánh. Với đức tính cẩn trọng, ông Jean Bonafos lấy 4 Bánh Thánh nhỏ bỏ vào Khăn Thánh rồi ông đưa tất cả cho cô Rose cùng với mặt nhật có Bánh Thánh lớn.

Cô Rose Llorens trao mặt nhật với Bánh Thánh lớn tận tay bà Thomase, phu nhân thị trưởng. Chính ông thị trưởng Jean Bonafos đặt mặt nhật có Bánh Thánh vào rương bằng gỗ rồi dấu kín trong nhà. Mình Thánh Chúa GIÊSU ở tại nơi trú ẩn khiêm tốn này gần trọn 7 năm, tức từ 7-2-1794 đến 9-12-1800. Chúa GIÊSU KITÔ không bị lãng quên. Cả hai vợ chồng ông thị trưởng luôn luôn dâng kính Chúa GIÊSU Thánh Thể lòng tôn thờ yêu mến thâm sâu.

Trong khi đó cô Rose trao 4 Bánh Thánh nhỏ cho thân mẫu là bà Anne-Marie Llorens Estéva. Theo lời khuyên của mẹ Joséphine de Romanya, Bề Trên tu viện Chúa Cứu Thế ở Perpignan, bà Anne-Marie đặt 4 Bánh Thánh trong một bình bằng thủy tinh, hoàn toàn trắng, rồi bọc kín với chiếc bị nhỏ bằng tơ lụa màu đỏ. Xong, bà đặt vào một ngăn tủ nhỏ dấu kín trong tường.

Nếu vì lý do cẩn trọng, gia đình ông thị trưởng Bonafos không thể tiếp rước nhiều người đến tôn thờ Chúa GIÊSU Thánh Thể, thì trái lại, gia đình cô Rose Llorens mở rộng cửa cho mọi người. Các tín hữu Công Giáo đạo đức, kín đáo đến thờ lạy Chúa GIÊSU KITÔ đang ẩn mình trong Bánh Thánh. Sau này, các giáo dân cao niên trong xứ đạo kể lại rằng, họ thường đem các trẻ em đến nhà cô Rose. Họ bảo chúng quì trước ngăn tủ có dấu Mình Thánh Chúa và dạy chúng cầu nguyện. Hàng năm đến ngày Thứ Năm Tuần Thánh giáo dân trong làng thường dựng một bàn thờ trước ngăn tủ và trang hoàng hoa tươi thật đẹp. Rồi họ cùng nhau quì im lặng chầu Mình Thánh Chúa.

.. Cuối năm 1800 là thời điểm đáng ghi nhớ đối với dân làng Pézilla-de-la-Rivière: chấm dứt những ngày bị bách hại tang tóc và cuộc rước khải hoàn Chúa GIÊSU Thánh Thể trở về ngôi thánh đường thân yêu.

Ngày 5-12-1800 cha phó Honoré Siuroles từ nơi trú ẩn trở về trước, đã đến nhà bà Anne Llorens. Cha trang trọng mở ngăn tủ nhỏ để lấy ra Bình Thánh bằng thủy tinh đựng 4 Bánh Thánh. Chính lúc này đây, cha phó vô cùng ngạc nhiên khi trông thấy 4 Bánh Thánh vẫn giữ nguyên nét trắng tinh toàn vẹn và Bình Thánh bằng thủy tinh lại được mạ vàng! Mạ vàng ngay bên trong lớp thủy tinh! Phép lạ trong phép lạ!

4 ngày sau, đến phiên cha sở Jacques Pérone trở về. Cha đến nhà ông thị trưởng Jean Bonafos lấy Bánh Thánh lớn và long trọng rước về thánh đường. Thật là một đại lễ cho toàn thể giáo xứ Pézilla-de-la-Rivière. Cha sở đặt Bánh Thánh lớn và 4 Bánh Thánh nhỏ vào trong Bình Thánh mới và để vào Nhà Tạm nơi bàn thờ chính. Gần một thế kỷ sau, tức năm 1875, khi thay Bình Thánh mới và đặt ra bên ngoài cho các tín hữu Công Giáo đến thờ lạy và kính viếng, giáo quyền lại một lần nữa có dịp ghi nhận rằng, các Bánh Thánh vẫn được bảo tồn nguyên vẹn, y như lúc được cất vào Nhà Tạm ngày 15-9-1793.

(P. Eugène COUET, “Les Miracles Historiques du Saint Sacrement”, Éditions D.F.T, Réédition 1998, trang 226-230 / 150-161).


SÙNG KÍNH ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM VÀ THÁNH THỂ CHÚA GIÊSU


Chiều 30-5-1862, ngày áp chót tháng Hoa kính Đức Mẹ, sau Kinh Tối, thánh Gioan Bosco (1815-1888) nói với các linh mục của ngài như sau:

Tôi muốn kể anh em nghe giấc mơ tôi thấy cách đây vài hôm. Anh em cứ tưởng tượng chúng ta đứng trên mỏm đá nằm trơ trọi giữa biển cả bao la. Anh em không trông thấy đất liền, ngoài mảnh đất nhỏ bé nằm dưới chân. Trên biển cả mênh mông, anh em trông thấy vô số tàu chiến. Mũi tầu giống như chiếc mỏ bằng sắt, bén như lưỡi dao, có thể đâm thủng và cắt đứt những vật nó chạm tới. Tàu trang bị đủ mọi thứ khí giới và các chất nổ gây hỏa hoạn. Tất cả các tàu chiến cùng tiến đánh một chiếc tàu trông thật quan trọng và vĩ đại hơn mọi chiếc tàu trong trận chiến. Chúng hùng hổ xông vào chiếc tàu lớn, đánh phá tứ tung, cố gắng gây thương tổn và hủy hoại càng nhiều càng tốt. Trong khi đó chiếc tàu lớn được một số thuyền và ghe buồm hộ tống. Các ghe thuyền nhận lệnh từ chiếc tàu lớn và thi hành chỉ thị, làm sao để có thể ứng phó với vô số tàu địch đang tấn công tứ phía. Thêm vào đó, gió thổi thật mạnh, khiến biển cả giao động kinh hoàng, gần như gây thuận lợi cho đối phương.

Bỗng nhiên từ giữa trận chiến nơi biển cả mênh mông, xuất hiện hai chiếc cột cao lớn, đặt gần nhau. Trên một chiếc cột có tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm. Dưới chân bức tượng là tấm bảng mang hàng chữ: “Phù Hộ các Giáo Hữu” Trên chiếc cột thứ hai, cao hơn và vĩ đại hơn, có Mặt Nhật Mình Thánh Chúa. Dưới chân Mặt Nhật cũng có tấm bảng mang hàng chữ: “Cứu Độ các Tín Hữu” .

Vị thuyền trưởng tối cao trên chiếc tàu lớn chính là Đức Giáo Hoàng, thủ lãnh Giáo Hội Công Giáo Roma. Đứng trên tàu, Đức Thánh Cha chứng kiến cái hung hãn của địch thù cũng như hiểm nguy của các tín hữu. Trận chiến mỗi lúc càng trở nên khốc liệt. Đức Thánh Cha cố gắng lèo lái chiếc thuyền tiến lên đứng giữa hai chiếc cột lớn. Thấy thế, các chiếc tàu địch khác lại dồn toàn lực để tấn công và ngăn cản không cho chiếc tàu lớn của Đức Thánh Cha di chuyển. Tuy nhiên, dù dùng đủ mọi mánh lới cộng với đủ mọi thứ khí giới, các chiếc tàu địch vẫn không phá hủy và ngăn cản được chiếc tàu lớn. Trái lại, chiếc tàu lớn từ từ tiến lên một cách vững chắc và an toàn, hướng về hai chiếc cột trên đó có tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm và Mặt Nhật Mình Thánh Chúa GIÊSU. Dĩ nhiên chiếc tàu lớn cũng bị bắn phá, nhưng không có thiệt hại nào đáng kể. Trong khi các tàu địch bị hư hại nặng nề. Có nhiều tàu bị vỡ tung và chìm sâu dưới lòng đại dương. Các địch thù đùng đùng nổi giận. Họ dùng gươm giáo đâm thủng loạn xạ, kèm theo những lời lộng ngôn và chửi rủa thậm tệ.

Đang hồi chiến đấu dữ dội Đức Giáo Hoàng bị thương, ngã quỵ xuống. Những người chiến đấu với ngài vội chạy đến, đỡ ngài lên. Nhưng ngài lại ngã xuống và tắt thở. Tức khắc một vị giáo hoàng khác được bầu lên thay thế, lèo lái chiếc tàu. Cuộc bầu cử nhanh chóng đến độ hung tín Đức Giáo Hoàng qua đời được loan đi cùng lúc với tên vị tân Giáo Hoàng kế vị. Điều này làm cho các địch thủ chán nản và mất hết nhiệt khí để chiến đấu.

Vị tân Giáo hoàng dẹp bỏ và vượt qua được hết mọi cản trở. Ngài lái chiếc tàu tiến thẳng đến hai cột trụ và len vào giữa. Ngài dùng dây xích ở đầu tàu cột vào chân trụ có Mặt Nhật Mình Thánh Chúa GIÊSU. Sau đó ngài lấy dây xích thứ hai ở đuôi tàu và cột vào trụ có bức tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm. Thế là diễn ra cảnh tượng vô cùng hỗn độn. Tất cả các chiếc tàu địch tìm đường chạy trốn. Trong cảnh hỗn độn ấy, chính các tàu địch lại đụng vào nhau, phá hoại nhau, khiến cho các tàu địch bị bể và chìm sâu xuống biển.

Kể đến đây, thánh Gioan Bosco ngừng lại nhìn cha Michele Rua (1837-1910) và hỏi: “Cha nghĩ thế nào về giấc mơ tôi vừa kể?”. Cha Michele Rua đáp: “Theo thiển ý con, Hai chiếc cột cứu thoát chính là hình ảnh của lòng sùng kính Đức MARIA Vô Nhiễm và Thánh Thể Chúa GIÊSU KITÔ” . Thánh Gioan Bosco đáp: “Đúng. Cha trả lời thật đúng. Các tàu chiến địch thù tức là các cuộc bách hại. Sẽ có những thử thách lớn lao cho Giáo Hội Công Giáo. Nhưng có phương thế duy nhất để cứu Giáo Hội khỏi mọi hiểm nguy. Đó là việc sùng kính Đức MARIA Vô Nhiễm và siêng năng xưng tội cùng rước Mình Thánh Chúa” .

(“LE CHRIST AU MONDE”, 10/1991, trang 330-331).

CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ VÀ DÂN PAPOUASIE


Dòng Thừa Sai Thánh Tâm Chúa GIÊSU và Mẹ MARIA là hội dòng của cha Damien de Veuster (1840-1889) , vị linh mục tông đồ người cùi. Cha có tên thật là Joseph de Veuster và đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolo 2 tôn phong chân phước ngày Chúa Nhật 5-6-1995 tại thủ đô Bruxelles của vương quốc Bỉ.

Dòng Thừa Sai Thánh Tâm có nhà Mẹ tại đường Picpus của thủ đô Paris và hoạt động tại nhiều nước trên thế giới. Sau đây là chứng từ của cha Eugène Sourisseau, Thừa Sai Thánh Tâm, về lòng yêu mến Thánh Thể của trẻ em và của người dân Papouasie, thuộc Thái Bình Dương. Cha viết:

Đầu năm 1992, tôi bắt đầu đi một vòng thăm viếng các bộ lạc ở Oro, Siguf, Tafad, nằm trong thung lũng Odab. Chúng tôi đến giáo xứ lớn Onongé.

Vào một buổi sáng thứ hai, tôi rời Siguf và tiến về Oro. Tôi dự định ở lại đây một tuần để viếng thăm và ban các bí tích cho các tín hữu. Làng Oro có 400 dân, trong đó 82 người trẻ được cắp sách đến trường. Trong số các người trẻ có 16 trẻ trai và trẻ gái cộng thêm với một vài người lớn, đang chuẩn bị rước lễ lần đầu.

Buổi sáng hôm ấy - vai mang bị hành lý - tôi tiến về Oro, lần theo những con đường làng đầy cỏ và ướt át. Đang đi, bỗng cậu bé Adigai Vénansio xuất hiện. Cậu bé vui mừng chạy đến bên tôi và nói: “Cha đưa bị của cha cho con mang”. Thế là cả hai chúng tôi cùng vui vẻ tiến về Oro. Chẳng bao lâu sau, một nhóm 6-7 trẻ đi học ở Oro lại nhập bọn với chúng tôi. Chúng tôi hăng hái tiến bước.

Vừa đi tôi vừa hỏi: “Này Vénansio, Chúa nhật tới con sẽ được rước lễ lần đầu. Được rước lễ lần đầu rồi, sẽ có gì đổi khác nơi con không?” . Đang đi, Vénansio bỗng đứng hẳn lại. Cậu bé đăm đăm nhìn tôi rồi trả lời: “Thưa cha, Chúa GIÊSU và con, chúng con sẽ trở thành MỘT”.

Câu trả lời của cậu bé Adigai Vénansio làm tôi cảm động và vui mừng. Không ngờ cậu bé nhà quê đơn sơ chất phác đã hiểu đúng ý nghĩa của bí tích Thánh Thể và tầm quan trọng của việc rước lễ lần đầu. Chúng tôi linh mục, những thừa tác thánh cử hành bí tích Thánh Thể mỗi ngày. Chúng tôi dâng Mình và Máu Thánh Chúa GIÊSU cho Thiên Chúa Cha để cầu xin ơn cứu độ cho toàn thế giới. Chính chúng tôi là những người đầu tiên phải sống linh đạo mà bé Adigai Vénansio đã tìm ra, thật giản dị, nhưng vô cùng sâu xa: Chúa GIÊSU và con, chúng con là MỘT.

Câu nói của cậu bé Adigai Vénansio cũng gói trọn tâm tình đạo đức của người dân Papouasie đối với bí tích Thánh Thể. Trong cuộc đời truyền giáo tại Papouasie, tôi kinh nghiệm rằng: lòng sùng kính Thánh Thể Chúa GIÊSU là phương thế tuyệt hảo nhất để tăng cường lòng tin.

Chúa GIÊSU và con, chúng con là MỘT: Một khi đã sống đúng chân lý này, người tín hữu sẽ thường xuyên đến viếng thăm Chúa GIÊSU, ẩn mình trong Thánh Thể, ngự trong Nhà Tạm. Sự hiện diện thật sự của Chúa GIÊSU trong Bí Tích Thánh Thể là suối nguồn tình yêu và ơn thánh, có sức mạnh biến đổi tâm lòng con người. Đó cũng là lý do thúc đẩy các tín hữu Công Giáo, sống trong những vùng núi xa xôi hẻo lánh, đã đi bộ suốt 4-5 ngày - vừa đi vừa về - để có thể tham dự một thánh lễ và lãnh nhận bí tích Giải Tội.

Có những làng không có linh mục thường xuyên đến dâng thánh lễ và ban bí tích Giải Tội, nhưng ít nhất là các tín hữu biết cất giữ Mình Thánh Chúa để thăm viếng, thờ lạy và lãnh nhận vào mỗi Chúa Nhật, khi họ tụ họp nhau để cử hành Phụng Vụ Lời Chúa.

“Thật, Thầy bảo thật anh em: Nếu anh em không ăn Thịt và uống Máu Con Người, anh em không có sự sống nơi mình. Ai ăn Thịt và uống Máu Thầy, thì được sống muôn đời, và Thầy sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì Thịt Thầy thật là của ăn, và Máu Thầy thật là của uống. Ai ăn Thịt và uống Máu Thầy, thì ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy” (Gioan 6,52-56).

( “Annales d'Issoudun”, Juin/1995, trang 205-206)

BÍ TÍCH THÁNH THỂ



... Lạy Chúa GIÊSU đang ngự thật trong Bí Tích Thánh Thể vì yêu con .. con xin vĩnh viễn dâng hiến Chúa trọn người con. Con xin từ khước tất cả những gì thuộc quyền con, để làm lễ tế dâng lên Chúa hầu Chúa trở thành Đấng duy nhất ngự trong con, nguyên lý tuyệt đối cuộc đời con. Xin Chúa điều khiển mọi hoạt động của con. Không còn gì cũng chẳng có gì thuộc về con, ôi Chúa GIÊSU dấu ái của con! Xin Chúa ngự vào lòng con, linh hồn con và chữa con khỏi bệnh hoạn tật nguyền ..

Đó là lời thề anh Giovanni Nadiani (1885-1940) dâng lên Chúa GIÊSU Thánh Thể khi gia nhập dòng Thánh Thể. Anh bắt đầu Năm Tập thứ nhất tại Castelvecchio di Moncalieri, tỉnh Torino (Bắc Ý) năm 22 tuổi. Anh quyết định chọn dòng Thánh Thể vì được hồng ân Chúa GIÊSU Thánh Thể lôi cuốn vào Tình Yêu vô biên của Ngài. Lời mời gọi của các tu sĩ Thánh Thể do thánh Pierre Julien Eymard (1834-1868) sáng lập cũng thu hút anh: “Nếu Chúa GIÊSU sống động và ngự thật trên bàn thờ cũng như trong Nhà Tạm, nếu Ngài là tất cả, thì sao bạn lại muốn tìm kiếm nơi khác? Hãy đến với Ngài và bạn sẽ tìm thấy tất cả!”

Nơi Tập Viện thầy Giovanni được giao nhiệm vụ coi nhà Mặc Áo (Phòng Thánh). Thầy tận tâm chu toàn công việc và rất sung sướng vì được dịp ở gần Chúa GIÊSU Thánh Thể, Đấng ngự trong Nhà Tạm. Ngày 7-11-1909 thầy Giovanni bắt đầu tuần tĩnh tâm chuẩn bị tuyên khấn. Thầy hân hoan với ý nghĩ rồi đây mình sẽ thuộc trọn về Chúa GIÊSU KITÔ. Trong đơn xin tuyên khấn gửi lên Cha Bề Trên Cả, thầy Giovanni Nadiani viết: Con vui mừng biết bao! Con phấn khởi với ơn gọi thiên thần của con! Con nồng nhiệt ước muốn làm cho mọi người biết đến Chúa GIÊSU, Chúa GIÊSU Thánh Thể dấu ái của lòng con! Nếu Chúa muốn con trở thành Linh Mục, thì ngay khi vừa lãnh chức phó tế, con sẽ chạy như bay qua các thành thị. Con sẽ giơ cao Mặt Nhật Mình Thánh Chúa, để mọi người trông thấy Chúa GIÊSU Thánh Thể và con sẽ nói với họ: ”Đây là Ngôi Lời của Thiên Chúa trở thành Bánh Thánh nuôi sống! Đây là Tình Yêu! Đây là Tình Yêu! .. Thế nhưng Chúa muốn con phụng sự Người trong chức vụ tu huynh, và chính lòng con cũng ao ước như thế ..”

Sau khi tuyên khấn, thầy Giovanni chu toàn các công tác khiêm tốn như: lo nhà Mặc Áo, y tá, giúp văn phòng báo chí của dòng và quét dọn nhà cửa. Qua bất cứ công việc nào, dù nhỏ mọn đến đâu, thầy Giovanni cũng chỉ có một mục đích duy nhất. Thầy không ngừng lập đi lập lại: “Cuộc đời tôi là để cầu nguyện. Bất cứ lúc nào, nếu có ai hỏi tôi đang làm gì, thì tôi chỉ trả lời: tôi đang thờ lạy Chúa GIÊSU KITÔ ..”

Chúa GIÊSU Thánh Thể gồm trọn lý tưởng sống cuộc đời thầy Giovanni. Thầy ghi trong nhật ký: “Chúa GIÊSU Thánh Thể là Đấng chỉ đạo, là nhiệt huyết, là mặt trời, là tình yêu, là sự thiện và là tất cả cuộc đời tôi”. Như thế, dầu không phải nhà giảng thuyết hùng hồn hoặc nhà truyền giáo nổi danh, thầy Giovanni vẫn có thể trở thành vị đại tông đồ của Chúa GIÊSU. Bởi vì, qua thầy, Chúa GIÊSU trở thành mặt trời soi chiếu đường đi cho vô số anh chị em đồng loại. Thầy giống như Mặt Nhật Mình Thánh Chúa, không nói, cũng chẳng hề áp đặt điều gì cho ai, nhưng để trưng bày và chiếu sáng Chúa GIÊSU KITÔ trước mặt mọi người.

Tháng 8 năm 1914 đệ nhất thế chiến bùng nổ với chiến tranh khai mào giữa hai nước Áo và Serbi. Tháng 5 năm 1915, nước Ý nhảy vào vòng chiến. Thầy Giovanni tha thiết cầu nguyện xin Chúa ban ơn Hòa Bình cho thế giới. Thế nhưng, khi nhận lệnh nhập ngũ, thầy mau mắn tuân hành. Thầy hy sinh cởi bỏ “tu phục” để khoác lên mình “chiến y”. Chỉ có điều đặc biệt, thầy để bộ râu ra rậm và dài, chứng tỏ cho mọi người thấy thầy là tu sĩ mang quân phục!

Nơi chiến trường thầy Giovanni Nadiani anh dũng phục vụ. Thầy xung phong đi hàng đầu trong các trận đánh khốc liệt. Thầy cũng xin cấp trên cho phép mang Mình Thánh Chúa đến các binh sĩ bị trọng thương. Năm 1919, thế chiến chấm dứt, thầy Giovanni sung sướng trở về tu viện. Thầy tiếp tục yêu mến Chúa GIÊSU Thánh Thể và Mẹ MARIA cho đến khi qua đời ngày 6-1-1940, sau 33 năm sống tinh thần “Nhà Tiệc Ly”, nếm trước niềm vui Thiên Quốc!

(Paolo Risso, “GIOVANNI NADIANI”, Editrice Elle Di Ci, 1995).



Ông Casimir và bà Anna là hai hội viên hết lòng với đảng cs vô thần Ba Lan. Ông bà chỉ có duy nhất đứa con gái tên Têrêxa, 11 tuổi. Cô bé trông thật xinh xắn mỹ miều. Nhưng bên trong cái nét duyên dáng ấy, lại ẩn chứa một ý chí sắt đá, cương quyết thực hiện cho bằng được điều mình muốn. Và điều cô bé ước muốn: cùng với các bạn gái đồng lứa tuổi chuẩn bị rước lễ lần đầu.

Sau nhiều ngày do dự, Têrêxa thu hết can đảm tỏ bày cùng cha mẹ. Vừa khi hiểu ý con gái, ông bà cảm thấy như đất rung trời sập! Sự nghiệp với đảng bỗng một sớm một chiều tan ra mây khói! Do đó, ông bà dứt khoát trả lời KHÔNG. Trăm lần KHÔNG. KHÔNG có chuyện xưng tội với rước lễ lần đầu! Bởi vì, nếu Têrêxa trở thành tín hữu Công Giáo, tức là ông bà phản bội chủ thuyết vô thần của đảng!

Lúc này đây Têrêxa biết phải làm gì. Cô bé nghĩ ra diệu kế: TUYỆT THỰC. Cô bé vào phòng riêng, lên giường, trùm kín chăn lại. Mặc cho mẹ dỗ ngon dỗ ngọt, Têrêxa vẫn không thay đổi, bao lâu cha mẹ không chấp nhận cho mình rước lễ lần đầu.

Cuộc tuyệt thực chuyển sang ngày thứ ba thì tình hình bỗng trở nên nghiêm trọng. Têrêxa yếu hẳn, giống như người sắp chết. Hai ông bà vô cùng lo lắng. Trong khi đó, Têrêxa đói vô cùng. Cô bé chống đói bằng những ly nước lã và không ngừng lần hạt Mân Côi. Cứ sau một tràng chuỗi, cô bé thêm phần kinh riêng của mình: “Thánh MARIA Đức Mẹ Chúa Trời .. xin cho Ba Má con nhượng bộ gấp, đầu hàng trước, nếu không, chắc chắn con sẽ chết vì đói. Thật ra, con đâu có muốn chết! Tuy nhiên, nếu cần, con sẵn sàng chết, chứ không đổi ý. Vậy xin Đức Mẹ cầu bầu cho con trong giờ lâm tử, nếu con bị bắt buộc phải chết. Nhưng con thích cầu xin Đức Mẹ thay đổi tâm lòng Ba Má con hơn. Con yêu Mẹ nhiều, Người Mẹ Thiên Quốc của con và con hết lòng tin tưởng nơi Mẹ!”

Cầu nguyện xong, Têrêxa trông thấy cánh cửa từ từ hé mở, rồi cả Má lẫn Ba bước vào. Ông Casimir âu yếm hỏi con: “Cưng của Ba, con cảm thấy như thế nào?” Bà Anna ranh mãnh hơn, đánh đúng tâm lý cô bé: “Con không đói sao? Cưng của mẹ?” Têrêxa bật khóc nức nở: “Con đói lắm chứ! Con có thể ăn hết một đĩa bột bắp, ngay lúc này đây, vì con quá đói! Con cũng có thể ăn khoai sống, dưa thối, hoặc bất cứ thức ăn nào người ta vứt đi, bởi vì con quá đói .. Nhưng con nói KHÔNG là KHÔNG. Con đói nhưng con không ăn gì cả. Và Ba Má sẽ chứng kiến cảnh con chết vì đói. Rồi Ba Má sẽ viết trên mộ con: 'Chết vì đói, vì lỗi của Ba Má'. Đúng thật là lỗi của Ba Má vì Ba Má cương quyết không chấp nhận cho con được rước Chúa GIÊSU Thánh Thể!”

Ông bà kinh ngạc nhìn nhau. Đây là lần đầu tiên cô bé thú nhận mình đói. Ông Casimir lợi dụng ngay tình thế. Ông nói: “Con à, Ba Má chỉ muốn điều tốt điều lành cho con. Sao con cứ nằng nặc đòi ăn cho bằng được một tấm Bánh Trắng nhỏ xíu? Nó có là gì đâu! Con ăn rồi cũng giống như chưa ăn. Chỉ có điều khác: nếu con ăn Miếng Bánh này, sự nghiệp Ba Má sẽ tiêu tan. Đảng sẽ loại trừ Ba Má. Vậy con không yêu Ba Má sao? Giờ đây Ba thấy rõ con không yêu Ba Má chút nào hết!”

Têrêxa im lặng nghe Ba nói. Bỗng cô bé ngồi bật dậy, nước mắt dàn dụa: “Ba Má nghĩ con không yêu Ba Má thật hay sao? Sở dĩ con tuyệt thực là vì con yêu Ba Má. Không phải lỗi con, nếu Ba Má không tin nơi Thiên Chúa. Phần con, con tin nơi Thiên Chúa và con tin cho tới chết. Và nếu con không được rước Chúa GIÊSU thật, con cũng có thể rước Chúa cách thiêng liêng bằng lòng ao ước. Và khi con chết rồi, trên Thiên Đàng, con sẽ cầu nguyện thật nhiều cho Ba Má!”

Không chịu thua, bà mẹ nghĩ ra chiến thuật khác. Bà nói với con: “Con tỏ ra thông thạo giáo lý Công Giáo. Con không biết đạo Công Giáo dạy phải vâng lời cha mẹ sao?” Suy nghĩ một chút Têrêxa lý luận: “Phải, con phải vâng lời cha mẹ, nhưng chỉ vâng lời trong điều thiện. Nếu cha mẹ truyền làm điếu xấu thì con cái có quyền không vâng lời. Đây là trường hợp của con. Điều Ba Má dạy con là xấu, vì Ba Má ngăn cản không cho con được rước Chúa GIÊSU. Vì thế, con có quyền thưa KHÔNG. KHÔNG và KHÔNG!

Nói đến đây, cô bé úp mặt khóc nức nở. Khóc vì hờn, vì đói và vì .. “chiến thuật” nữa. Cô bé biết rõ Ba Má rất cưng chìu mình, đặc biệt là Ba! Và Têrêxa đã thành công. Ông bà đành chấp nhận cho cô con gái dọn mình xưng tội và rước lễ lần đầu .. Têrêxa vui mừng không xiết kể. Cô bé dâng lời tạ ơn: “Cám ơn Đức Mẹ dấu ái của con. Chúa ơi, nếu Mẹ không giúp, hẳn là con không đủ sức chiến đấu đến cùng. Giờ đây, con xin Mẹ thay đổi lòng Ba Má con, để Ba Má cũng dọn mình rước Chúa GIÊSU với con. Mẹ làm được mọi sự, bởi vì Thiên Chúa không từ chối điều gì với Mẹ. Con hoàn toàn tin tưởng nơi sự cầu bầu của Mẹ. Amen”.

(MARIA Winowska “Les Voleurs de Dieu”, Editions Saint Paul, 1989, trang 129-137).


Bấm vào đây trở về “Tin YÊU Và Hy Vọng Của Kitô Giáo”

Gương CHỨNG NHÂN

1. THÁNH ANTÔN VÀ PHÉP LẠ THÁNH THỂ TẠI TOULOUSE

Thánh Antôn thành Padova (1195-1231) là tu sĩ hèn mọn dòng thánh Phanxicô thành Assisi (1182-1226), Tiến Sĩ Hội Thánh. Có thể nói ngài là một trong những vị thánh được kêu cầu nhiều nhất của Giáo Hội Công Giáo. Thánh Antôn gốc Bồ-đào-nha nhưng đã chọn Italia làm quê hương thứ hai và trở thành người Ý. Ngài có tên thật là Fernando. Tài hùng biện kèm theo tâm tình đạo đức sâu xa đã khiến các Bề Trên gởi Cha Antôn đi thuyết giảng nhiều nơi. Linh Mục Antôn có biệt tài bẽ gãy mọi lý lẽ của bọn lạc giáo - cách riêng nhóm Albigeois - lúc ấy đang tung hoành tại Toulouse và vùng Tây Nam nước Pháp. Mức độ thánh thiện của Linh Mục tu sĩ Antôn trổi vượt đến độ, chỉ vỏn vẹn một năm sau khi ngài qua đời, Đức Giáo Hoàng Gregorio 9 (1227-1241) đã nâng Cha Antôn lên bậc hiển thánh! Đó là năm 1232.

Ưu điểm cuộc đời thánh Antôn là lòng tôn sùng Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể. Chính tâm tình kính yêu này đã giúp thánh nhân đánh bại mọi tấn kích vô thần đối với Đức Tin Công Giáo. Một ngày, thánh Antôn có mặt tại Toulouse để bác bỏ các lầm lạc của nhóm Albigeois liên quan đến bí tích Thánh Thể. Cuộc tranh cãi diễn ra vô cùng sôi nổi. Thánh Antôn lý luận rành mạch và vững mạnh đến độ nhóm lạc giáo phải cứng miệng. Cứng miệng nhưng không dễ đầu hàng. Họ cố gắng cầm cự cho đến phút chót. Sau cùng, trưởng nhóm lạc giáo đề nghị:

- Dẹp một bên các lý luận. Bây giờ chúng ta đi vào thực tế. Nếu ông có thể đưa ra một bằng chứng, qua một phép lạ tỏ tường, trước sự chứng kiến của toàn dân rằng: Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ hiện diện thật sự trong Bánh Thánh, thì tôi sẵn sàng từ bỏ lạc giáo và trở về với Đức Tin Công Giáo.

Đầy tin tưởng nơi quyền năng vô biên của Đức Chúa GIÊSU KITÔ Thánh Thể, thánh Antôn trả lời ngay:
- Tôi chấp thuận đề nghị của anh.
Ông lạc giáo Albigeois nói tiếp:
- Ở nhà tôi có một con la cái. Tôi sẽ nhốt nó vào chuồng và bỏ nó nhịn đói 3 ngày. Ngày thứ ba, tôi sẽ dẫn nó đến đây, trước mặt mọi người, và dọn cho nó một thùng kiều mạch thơm ngon. Còn ông, ông hãy đưa cho nó ”cái” mà ông gọi là Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Nếu con vật bị đói mà không thèm ăn của ngon người ta dọn cho nó nhưng lại chạy đến cùng Đấng THIÊN CHÚA, mà theo lời ông, hết mọi thọ sinh phải bái gối thờ lạy, thì tôi sẽ trọn lòng tin nơi giáo huấn của Hội Thánh Công Giáo.

Đúng ngày hẹn, toàn thể dân thành Toulouse chen chúc có mặt tại quảng trường chính, nơi diễn ra cuộc thách thức. Tín hữu Công Giáo cũng như đồ đệ lạc giáo, mỗi người dấu ẩn một tâm tình riêng tư. Gần đó, trong một nhà nguyện, thánh Antôn dâng Thánh Lễ thật sốt sắng.

Bên ngoài, ông lạc giáo Albigeois kéo con la cái đến và truyền mang cho con vật thức ăn nó ưa thích. Nhóm lạc giáo có mặt đông đảo lộ vẽ hoan hỉ như cầm chắc thắng lợi. Thánh Antôn từ thánh đường bước ra, tay giơ cao Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Giữa bầu khí im lặng như tờ, thánh Antôn lớn tiếng ra lệnh cho con lừa:

- Nhân danh THIÊN CHÚA, Đấng tạo dựng nên ngươi, và mặc dầu bất xứng, ta đang giữ Ngài trong tay ta, ta truyền cho ngươi, hỡi con vật đáng thương, hãy mau lẹ đến quỳ gối thờ lạy Người. Phải làm cho các kẻ lạc giáo nhìn nhận rằng, mọi thọ sinh đều phục tùng Đấng THIÊN CHÚA Tạo Hóa mà vị Linh Mục Công Giáo được diễm phúc làm cho Ngài ngự xuống trên bàn thờ.

Cùng lúc ấy, người ta đưa thùng kiều mạch thơm ngon đến trước mặt con lừa. Lạ lùng thay, con lừa không đoái hoài đến thức ăn. Trái lại, nó nghe theo lệnh của thánh Antôn. Nó gập hai cẳng trước và quì xuống cung kính thờ lạy Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ.

Trước cảnh tượng này, các tín hữu Công Giáo vui mừng không tả xiết. Còn nhóm lạc giáo thì tỏ ra kinh hoàng rúng động. Trước phép lạ tỏ tường, ông trưởng nhóm lạc giáo Albigeois đã giữ đúng lời hẹn. Ông từ bỏ lạc giáo và khiêm tốn trở về với giáo huấn chân thật của Giáo Hội Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền.

2. ĐỒ ĐỆ LẠC GIÁO ZWINGLI HOÁN CẢI NHỜ PHÉP LẠ THÁNH THỂ

Đan viện hoàng gia San Lorenzo ở Escurial bên Tây-Ban-Nha, do vua Philipphê II (1527-1598) thành lập. Nơi đây có tôn kính Bánh Thánh Phép Lạ. Hơn 4 thế kỷ trôi qua nhưng Bánh Thánh vẫn giữ nguyên vẹn bản chất. Bánh Thánh Phép Lạ được đặt nơi bàn thờ bên trong Phòng Thánh. Bánh Thánh được che khuất bởi một bức tranh tuyệt đẹp. Bức tranh diễn tả vua Carlo II (1661-1700) cùng với toàn thể triều đình đang quì gối thờ lạy Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ.

Sử liệu đan viện San Lorenzo ghi lại sự tích Bánh Thánh Phép Lạ như sau.

Thế kỷ 16 là một trong những thế kỷ đau thương nhất của Giáo Hội Công Giáo. Tại Âu Châu nổi lên phong trào Cải Cách đưa đến sự ly khai làm phát sinh các hệ phái Tin Lành. Nổi bậc nhất là 3 ông tổ lạc giáo: Jean Calvin (1509-1564) người Pháp, Martin Luther (1483-1546), người Đức và Ulrich Zwingli, người Thụy Sỹ.

Hòa Lan lâm cảnh nội chiến đẫm máu, dưới chiêu bài tôn giáo. Đâu đâu cũng gặp cảnh tang thương chết chóc. Các thánh đường và các tu viện bị xúc phạm, đốt cháy. Lợi dụng “nước đục thả câu” nhóm lạc giáo Zwingli cũng xuất đầu lộ diện đánh phá khắp nơi.

Một ngày trong năm 1592, đồ đệ Zwingli hùng hổ xông vào thành Gorkum. Họ đập ảnh tượng thánh và theo thói dữ vẫn làm, họ đi đến chỗ phạm thánh. Họ ùa vào nhà thờ chánh tòa ăn cướp những gì có giá trị. Sau cùng họ cướp Bình đựng Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ và trút bỏ các Bánh Thánh xuống đất. Chưa hết, như bị quyền lực Satan điều khiển, họ còn dám giơ chân đạp lên Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Trước hành động xúc phạm, Đức Chúa GIÊSU KITÔ không trừng phạt nhãn tiền các thủ phạm. Ngài chỉ để lại một dấu tích như bằng chứng đau thương của lòng Nhân Hậu. Một Bánh Thánh bị chà đạp bỗng tuôn ra máu tươi của người sống.

Chứng kiến hiện tượng lạ lùng, một trong các đồ đệ lạc giáo nhận được ơn hoán cải. Tạm gọi tên ông là Gioakim. Ông Gioakim vừa có tâm tình kính tôn trước Phép Lạ Thánh Thể vừa kinh hoàng về hành động phạm thượng của mình. Hai tâm tình hỗn độn đó khiến ông bị đứng im như trời tròng. Ông muốn chạy lại cầm lấy Bánh Thánh Phép Lạ nhưng một sức mạnh vô hình ngăn cản không cho ông nhúc nhích. Sau một lúc phấn đấu, ông chạy như điên ra khỏi nhà thờ. Ông chạy một mạch đến thẳng nhà Vị Tổng Đại Diện lúc bấy giờ là Đức Ông Jean Vander Delpht. Ông xúc động kể lại cho Cha Bề Trên giáo phận nghe biến cố phạm thánh vừa diễn ra nơi nhà thờ chánh tòa.

Đức Ông cùng ông Gioakim đến ngay nhà thờ. Với tâm tình tràn đầy kính tôn trước Bánh Thánh Phép Lạ, Đức Ông mang Bánh Thánh chạy trốn khỏi nhóm lạc giáo Zwingli. Cả hai rời Gorkum tiến về thành phố Malines và đến thẳng tu viện các tu sĩ dòng Thánh Phanxicô. Đức Ông giao cho các tu sĩ nhiệm vụ cất giữ Bánh Thánh Phép Lạ đồng thời làm việc đền tạ vì Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể bị xúc phạm.

Về phần ông Gioakim, ông hoàn toàn ăn năn về tội lỗi tầy trời của mình. Ông không muốn rời xa Bánh Thánh Phép Lạ. Ông xin các tu sĩ cho phép ở lại tu viện. Sau thời gian chay tịnh, khóc lóc đền bù tội phạm thánh, ông xin gia nhập tu viện. Từ đó ông tiếp tục cuộc sống tu trì trong tâm tình thống hối và yêu mến tràn bờ đối với Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể.

Bánh Thánh Phép lạ được tôn kính nơi tu viện các tu sĩ Phanxicô ở Malines một thời gian. Sau đó vì cẩn trọng, Bánh Thánh được đưa sang Vienne, thủ đô nước Áo, rồi lại chuyển đến Praha, thủ đô nước Tiệp. Sau cùng, Bánh Thánh Phép Lạ được đưa sang Tây-Ban-Nha, đặt nơi Đan viện hoàng gia San Lorenzo ở Escurial.

3. CHIẾN THẮNG NHỜ ĐỨC CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ

Năm 1239, một cuộc chiến kinh hoàng càn quét đất nước Tây-Ban-Nha. Trước tiên, quân Ả-Rập hồi giáo tiến chiếm thành Valencia. Valencia nằm về mạn Đông Nam Tây-Ban-Nha. Một ngày, nhóm hồi giáo bất ngờ đem quân đông đảo nhằm đánh phá tan tành quân lực Công Giáo chỉ gồm khoảng 1 ngàn binh sĩ. Thấy cơ nguy, binh sĩ Công Giáo chạy vào trấn thủ nơi một lâu đài. Với con số quá ít ỏi so với địch quân, lại thêm địa thế cách xa Valencia, binh sĩ Công Giáo gần như cầm chắc thất bại trong tay.

Không còn hy vọng nơi bất cứ quyền lực thế trần, binh sĩ Công Giáo đặt trọn niềm tin nơi sự trợ giúp của Trời Cao. Họ cũng muốn chuẩn bị tinh thần trước khi khởi sự cuộc chiến bằng cách lãnh nhận hai bí tích Giải Tội và Thánh Thể. Thế nhưng, hiểm nguy đến gần, thời giờ khẩn cấp mà chỉ có một Linh Mục. Tất cả các binh sĩ không thể cùng lãnh nhận 2 bí tích. Họ nhanh chóng đề cử 6 vị tướng tham dự Thánh Lễ thay cho toàn số binh sĩ. Trong lúc đó, các binh sĩ Công Giáo túc trực sẵn sàng đẩy lui mọi tấn kích của quân thù.

6 vị tướng dọn mình xưng tội. Rồi họ đứng quanh bàn thánh sốt sắng tham dự Thánh Lễ. Thánh Lễ đến hồi truyền phép và sau đó mọi người chuẩn bị rước lễ. Vào chính lúc ấy, còi báo động vang lên báo hiệu quân hồi giáo đang tiến vào. Nhanh như chớp, 6 vị tướng vơ vội vũ khí và chạy như bay nhập hàng với các binh sĩ. Không muốn phơi bày Mình Thánh Chúa cho quân hồi giáo xúc phạm, vị Linh Mục cẩn trọng đặt tất cả Bánh Thánh vào Khăn Thánh, gói kín lại và dấu dưới một viên đá.

Đức Chúa GIÊSU KITÔ như cảm động trước tâm tình tín thác vô bờ của các tướng lãnh cùng binh sĩ Công Giáo thành Valencia đối với bí tích Thánh Thể. Ngài không để họ phải thất vọng. Ngài ra tay uy quyền cứu giúp. Đức Chúa GIÊSU đã xuất hiện cách oai hùng, dẫn đầu đoàn binh Công Giáo ít ỏi, chống trả quân hồi giáo vô cùng đông đảo. Thế là nhóm Ả rập thất kinh hồn vía, ù té bỏ chạy như điên.

Quân lực Công Giáo Tây Ban Nha chiến thắng vẻ vang mà không mảy may tổn thất. Đầy lòng tri ân trước chiến thắng bất ngờ, các tướng lãnh Công Giáo quyết định thi hành chương trình thiêng liêng đã vạch ra trước khi bị tấn công. Đó là lãnh nhận Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Vị Linh Mục hân hoan chạy đến chỗ dấu ẩn, lấy Mình Thánh Chúa và đưa về bàn thờ. Nhưng lạ lùng thay, khi vị Linh Mục mở Khăn Thánh ra thì thấy các Bánh Thánh lấm tấm các giọt máu và Máu dính vào Khăn Thánh.

Thay vì tỏ ra kinh hãi, các binh sĩ Công Giáo Tây Ban Nha nghĩ rằng, chính Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ đã giúp cho cuộc giao tranh đi đến chỗ chiến thắng ngoài mức chờ mong.

Trong khi đó, quân Ả Rập hồi giáo sau khi chạy tán loạn, liền qui tụ lại. Họ hổ thẹn vì đã thất trận ê chề. Lần này họ cương quyết đánh giết tan tành nhóm binh lính Công Giáo. Về phía binh sĩ Công Giáo, được củng cố nhờ sự trợ giúp thần linh của Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể, không hề tỏ ra nao núng sợ hãi. Họ xin vị Linh Mục cầm Khăn Thánh có in Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ rồi đứng trên một nơi thật cao, làm thế nào để tất cả các binh lính Công Giáo đều có thể trông thấy. Như được kích động bởi Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ, các binh sĩ Công Giáo hăng say chiến đấu. Họ xông tới giết chết cách dễ dàng toàn bộ nhóm quân hồi giáo.

Cuộc chiến thắng vinh quang thứ hai chấm dứt cuộc giao tranh đẫm máu của quân Ả Rập hồi giáo muốn đánh phá và chiếm đoạt thành Valencia của các tín hữu Công Giáo.

(Père Eugène Couet, ”Les Miracles Historiques du Saint Sacrement”, Éditions D.F.T, Réédition 1998).



PHÉP LẠ THÁNH THỂ (II)


Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt

1. HÌNH ĐỨC CHÚA GIÊSU HÀI ĐỒNG VÀ MÁU THÁNH TUÔN RA TỪ MÌNH THÁNH CHÚA

Ngày 13-7-1857, Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Pio IX (1846-1878) đến hành hương Ferrare (Trung Bắc Ý). Chiều hôm ấy, cùng với đoàn tùy tùng gồm các Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục, Đức Pio IX trang nghiêm tiến vào đền thờ Santa Maria del Vado nơi có thánh tích Phép Lạ Thánh Thể xảy ra trước đó gần 7 thế kỷ. Thánh đường nhân dịp này được thắp sáng trông thật uy linh lộng lẫy. Đức Pio IX đến quì trước Nhà Tạm, thờ lạy Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể. Xong, ngài bước sang bàn thờ bên cạnh, nơi có thánh tích Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU ghi trên các tấm đá. Đức Pio IX lặng lẽ quì gối thờ lạy Máu Châu Báu Cực Thánh của Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Sau khi thờ kính, Đức Thánh Cha tiến lại gần quan sát kỹ lưỡng các Vết Máu. Ngài quay sang nói với mọi người hiện diện:

- Các Giọt Máu này giống y các Giọt Máu Phép Lạ ghi trên Khăn Thánh thành Orvieto vào năm 1263.

(Câu nói chứng tỏ sự thật hiển nhiên của Phép Lạ Thánh Thể tại cả hai nơi: Ferrare và Orvieto, đều thuộc nước Ý)

Năm 1871, nhân kỷ niệm 700 năm xảy ra Phép Lạ Thánh Thể Ferrare (1171-1871), Đức Thánh Cha Pio IX ban cho thành một ân huệ đặc biệt. Đó là hàng năm vào Chúa Nhật thứ 5 sau Phục Sinh, toàn thể giáo phận Ferrare được cử hành các nghi lễ trọng thể để kính nhớ Phép Lạ Thánh Thể.

Sau đây là diễn tiến Phép Lạ được ghi trong sử liệu Giáo Hội Công Giáo.

Chúa Nhật Phục Sinh 26-3-1171, nơi nhà thờ Santa Maria del Vado, cử hành Thánh Lễ trọng thể mừng Đức Chúa GIÊSU Phục Sinh. Chủ tế Thánh Lễ là Cha Pietro di Verona, một Linh Mục nổi tiếng thánh thiện. Hiện diện trong Thánh Lễ còn có một số Linh Mục khác và đông đảo giáo dân thành Ferrare tham dự.

Sau lời truyền phép khi vị chủ tế giơ cao Mình Thánh Chúa cho giáo dân thờ lạy, bỗng toàn thể cộng đoàn trông thấy rõ ràng hình ảnh Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng xuất hiện trong Bánh Thánh. Thân Thể Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng nằm trọn trong Bánh Thánh. Vào thời kỳ đó, tại nước Ý, Bánh Thánh lớn thường có chiều kích gấp 4,5 lần Bánh Thánh lớn hiện nay. Do đó, toàn thể cộng đoàn có thể chiêm ngắm rõ ràng hình ảnh Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng xuất hiện trong Bánh Thánh.

Thánh Lễ được tiếp tục trong sự xúc động sâu xa của toàn thể cộng đoàn. Thế nhưng, sự lạ êm ái nhẹ nhàng đầu tiên lại tiếp nối một sự lạ thứ hai, oai hùng và đáng run sợ hơn. Đó là, khi vị chủ tế cầm lấy Bánh Thánh và bẻ ra làm đôi, bỗng Máu Thánh Chúa dồi dào tuôn ra từ Bánh Thánh. Máu Thánh chảy ra lênh láng. Chưa hết, Máu Thánh còn phun vọt lên khiến trần đền thờ lấm tấm các giọt Máu Thánh. Mọi tín hữu có mặt đều khiếp kinh hồn vía.. Sau đó, người ta nghĩ rằng, Phép lạ Máu Thánh tuôn ra từ Bánh Thánh như câu trả lời cho những người Do Thái lúc ấy đang có mặt tại thành Ferrare. Những người Do Thái này thường rêu rao từ chối không tin Đức Chúa GIÊSU hiện diện thật sự trong Bánh Thánh. Không tin đã đành, họ còn dám chế nhạo và xúc phạm đến Đức Tin của các tín hữu Công Giáo.

Phép Lạ Thánh Thể quá hiển nhiên. Tin đồn loan nhanh trong thành phố và các vùng phụ cận. Mọi người tức tốc chạy đến chứng kiến tận mắt Phép Lạ Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU tuôn ra từ Bánh Thánh. Chính Đức Cha Amato, giám mục Ferrare cũng đích thân đến ngay nhà thờ Santa Maria del Vado. Chứng kiến hiện tượng diệu kỳ, đức giám mục long trọng tuyên bố trước toàn thể các tín hữu:

- THIÊN CHÚA đã thực hiện một công trình cao cả và trọng đại.

Về phần Đức Cha Gerardo, Tổng Giám Mục giáo phận Ravenna, khi nghe tin đồn Phép Lạ Thánh Thể cũng mau mắn đến ngay Ferrare. Trước Máu Thánh phép lạ, Đức Cha quỳ gối thờ kính thật lâu. Sau đó, Đức Cha ban ân xá cho tín hữu nào đến kính viếng Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU với trọn lòng tin yêu. Đức Tổng Giám Mục cũng không ngần ngại tuyên bố:

- Quả thật, chính THIÊN CHÚA đã làm một điều kỳ diệu.

2. CA ĐOÀN THIÊN THẦN THÁP TÙNG CUỘC RƯỚC KIỆU MÌNH THÁNH CHÚA.

Ngày 11-8-1264, Đức Giáo Hoàng Urbano 4 (1261-1264) ban tự sắc thiết lập lễ trọng thờ kính Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ trong toàn thể Giáo Hội Công Giáo. Cùng lúc, Đức Urbano 4 cũng giao cho thánh Tommaso d'Aquino (1225-1274) nhiệm vụ soạn các bản văn Phụng Vụ cho lễ trọng đại này. Tiếc thay, Đức Urbano 4 từ trần hơn một tháng rưỡi sau đó vào ngày 2-10-1264, vì thế lễ Mình Thánh Chúa bị bỏ lửng.

Mãi đến hơn 50 năm sau, nơi Công Đồng Vienne, Đức Clemente 5 mới truyền áp dụng tự sắc của Đức Urbano 4 về việc long trọng mừng lễ Mình Thánh Chúa trong toàn thể Giáo Hội Công Giáo. Hai năm sau, 1318, Đức Gioan 22 (1316-1334) lại thêm vào lễ Mình Thánh Chúa cuộc rước kiệu trọng thể. Mình Thánh Chúa được đặt trong Mặt Nhật và được long trọng rước qua các nẻo đường làng hoặc thành phố, với hoa nến trang hoàng thật lộng lẫy.

Vào thế kỷ 16, nơi thành Luchent ở miền Bắc nước Tây Ban Nha, tín hữu Công Giáo có thói quen mừng trọng thể lễ Mình Thánh Chúa cùng với cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa. Giáo dân tổ chức vô cùng chu đáo. Mình Thánh Chúa được long trọng rước qua các đoạn đường thật dài. Ngày 1-7-1564 để gia tăng phần long trọng cho cuộc kiệu, người ta xin đội trống kèn âm nhạc của thành phố Xativa đến tháp tùng Mình Thánh Chúa.

Mãi đến giờ Cuộc rước phải bắt đầu, vẫn không thấy đoàn âm nhạc trống kèn đâu cả. Mọi người kiên nhẫn chờ đợi trong vòng một tiếng đồng hồ. Sau cùng, Cha Sở ra hiệu cuộc rước khởi hành.

Khi đoàn rước đi qua cửa thành, mọi người bỗng nghe rõ một điệu nhạc trổi lên thật du dương. Tiếng trống tiếng nhạc tiếng kèn gieo vào lòng mỗi người một niềm vui khó tả. Ai nấy hài lòng vì cho rằng đội kèn thành phố Xativa đã thật sự đến nơi. Nào ngờ sau một lúc lâu, vẫn không trông thấy bóng dáng nhạc sĩ nào cả. Trong khi đó, tiếng nhạc tiếng kèn tiếng trống vẫn tiếp tục trổi lên những bản nhạc tuyệt vời.

Toàn thể các tín hữu Công Giáo trong đoàn rước kiệu Mình Thánh Chúa nhìn nhau lộ vẻ vừa ngỡ ngàng vừa hân hoan. Một số bạn trẻ tự động rời hàng ngũ để kiểm xem ai dám ngăn chặn không cho ban nhạc thành phố Xativa nhập đoàn rước. Nhưng các bạn trẻ không trông thấy một ai. Thêm vào đó, khi ở ngoài hàng ngũ, các bạn trẻ không còn nghe được tiếng âm nhạc du dương nữa. Trái lại vừa khi đứng nghiêm trang vào hàng ngũ, tức khắc tai các bạn trẻ lại nghe được âm nhạc tuyệt vời như trước.

Chính lúc này mọi người đồng ý với nhau rằng, THIÊN CHÚA đã gởi Các Thiên Thần của Ngài - ca đoàn thiên quốc - đến thay thế cho ban nhạc thành phố thất trung, không muốn dùng tiếng kèn điệu nhạc tiếng trống vang lên lời chúc tụng ngợi khen Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ.

Tiếng nhạc thiên quốc tháp tùng đoàn tín hữu Công Giáo rước kiệu Mình Thánh Chúa dọc theo suốt các quãng đường dài, trong trang nghiêm và sốt sắng. Ngoài ra, không phải chỉ riêng các tín hữu tham dự cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa được diễm phúc nghe âm nhạc tuyệt vời đến từ Trời Cao, nhưng cả một bô lão nữa. Vị cao niên này bị bệnh phải nằm liệt giường, không thể tham gia cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa. Nhưng lạ lùng thay, cả cụ già này cũng được diễm phúc nghe rõ tiếng nhạc du dương réo rắc của ca đoàn các Thiên Thần đến từ Trời Cao. Thật là tuyệt diệu.

3. BÁNH THÁNH VÀ CHÉN THÁNH TỎ HIỆN CHO 2 NGƯỜI DO THÁI

Thánh Tomas de Villanueva là tu sĩ dòng Thánh Agostino. Ngài sinh năm 1486 và qua đời năm 1555 tại Valencia bên nước Tây-ban-nha. Thánh nhân xuất thân từ một gia đình thượng lưu.

Ngày còn là tu sĩ trẻ, Cha Tomas de Villanueva kết thân với một thanh niên từ Do thái giáo trở lại Kitô Giáo. Tạm gọi tên chàng là Antonio. Từ ngày lãnh nhận bí tích Rửa Tội và gia nhập Giáo Hội Công Giáo, Antonio nhiệt tâm sống đạo. Chàng sống đạo thật nghiêm chỉnh và chân thành.

Một ngày chàng lâm trọng bệnh. Biết mình không thoát lưỡi hái tử thần, Antonio mời Cha Tomas de Villanueva đến và kể cho Cha nghe câu chuyện đời mình như sau.

Thưa Cha là người Cha, là vị an ủi, là ông thầy thuốc và là đấng chỉ đạo dìu dắt linh hồn con. Xin Cha thứ lỗi cho con vì đã làm phiền Cha khi mời Cha ghé đến nhà thăm con. Thật ra con muốn tỏ lộ cùng Cha một bí mật trọng đại. Con không muốn vĩnh viễn ra đi trước khi ủy thác cho Cha điều bí mật con vẫn giữ kín trong lòng.

Một ngày, thân phụ con sai con đi giải quyết một vấn đề nghiêm trọng. Con ra đi cùng với một thanh niên Do Thái đồng tuổi với con. Trên đường, chúng con bắt đầu thảo luận về Đấng MESSIA mà người Do Thái chúng con vẫn còn mù quáng mong mỏi chờ đợi ngày Ngài xuất hiện. Chúng con thảo luận nồng nhiệt đến độ nẩy sinh niềm ước muốn được trông thấy Đấng MESSIA. Lòng đầy trào ra miệng. Chúng con cất tiếng tha thiết nguyện xin:

- A, phải chi giờ đây Ngài xuất hiện ngay nơi thời đại chúng con, hẳn chúng con sẽ sung sướng biết là chừng nào. Thật hạnh phúc biết bao nếu chúng con được may mắn trông thấy Ngài tận mắt!

Cuộc trao đổi tư tưởng cứ thế tiếp tục và càng nói, lòng chúng con càng bừng lên niềm ao ước chân thật: trông thấy Đấng MESSIA! Chúng con mải mê nói cho đến lúc chúng con trông thấy một luồng sáng tuyệt đẹp xuất hiện trên bầu trời. Trời đã chạng vạng tối. Ánh sáng chói chang khiến chúng con có cảm tưởng như bầu trời mở ra. Ngay lúc ấy, con nhớ lại lời thân phụ con thường nói với chúng con:

- Thỉnh thoảng trời mở ra và chúng ta có thể xin Chúa vài ơn với niềm hy vọng chan chứa là thế nào Chúa cũng nhận lời chúng ta cầu xin.

Tức khắc, chúng con quì sụp xuống. Và với trọn tâm tình tha thiết, chúng con khẩn nài THIÊN CHÚA tỏ lộ Đấng MESSIA cho chúng con. Chúng con xin Chúa cho chúng con được chiêm ngưỡng thánh nhan Đấng chúng con hằng mong mỏi trông chờ từ mấy ngàn năm qua.

Giữa những tiếng khẩn nài và trước ánh sáng chói chang mà hai cặp mắt chúng con dán chặt không rời, bỗng chúng con trông thấy xuất hiện gần nơi chỗ chúng con đang quì, một Chén Thánh lóng lánh với Bánh Thánh lơ lửng bên trên. Bánh Thánh có chiều kích giống y như Bánh Thánh vị Linh Mục Công Giáo giơ cao cho giáo dân thờ lạy sau khi truyền phép. Không bút nào tả hết nỗi kinh hoàng của chúng con vào chính lúc ấy. Nhưng chỉ trong thoáng giây thôi. Bởi vì ngay sau đó, chúng con cảm nghiệm niềm an bình và an ủi khôn tả. Chúng con được giải thoát khỏi mọi nỗi sợ hãi và cùng lúc, đôi mắt linh hồn chúng con được mở rộng. Nhờ ánh sáng từ trời soi chiếu, chúng con hiểu ngay rằng, Đấng MESSIA chúng con hằng mong đợi, đang ngự thật trong Bánh Thánh. Thời gian chờ đợi đã chấm dứt lâu lắm rồi. Và tôn giáo đích thật chính là Kitô Giáo.

Khỏi cần nói nhiều Cha cũng hiểu lòng chúng con tràn ngập niềm hân hoan và tri ân THIÊN CHÚA như thế nào. THIÊN CHÚA đã đích thân chữa lành bệnh mù quáng tinh thần của chúng con bằng một phép lạ quá diệu kỳ.

Khi trở về nhà, con nghĩ nên giữ kín chuyện con đã được Chúa ban cho ơn hoán cải tâm hồn. Sau đó, vào một dịp thuận lợi, con vội vàng xin lãnh nhận bí tích Rửa Tội và gia nhập Giáo Hội Công Giáo, duy nhất, thánh thiện và tông truyền. Từ đó, giống như Cha đã biết, con luôn luôn sống đời Kitô hữu chân chính. Con luôn trung tín với các giáo huấn Tin Mừng của Chúa chúng ta là Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Đấng Cứu Độ thế giới cùng toàn thể nhân loại.

(Père Eugène Couet, ”Les Miracles Historiques du Saint Sacrement”, Éditions D.F.T, Réédition 1998).



PHÉP LẠ THÁNH THỂ (III)


Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt

1. ĐỨC CHÚA GIÊSU HÀI ĐỒNG XUẤT HIỆN TRONG BÁNH THÁNH

Vua thánh Louis IX (1214-1270) của nước Pháp sinh tại Poissy và qua đời tại Carthage bên Tunisie. Nhà vua trị vì nước Pháp 44 năm với 10 năm đầu (1226-1236) dưới quyền nhiếp chính của Hoàng thái hậu Blanche de Castille.

Vua thánh Louis 9 là người liêm chính, là vị vua hiền đức trong thời bình và là bậc dũng chí trong thời chiến. Ngài nêu gương cho các bậc làm chồng làm cha cũng như cho các vua chúa quan quyền. Ngoài ra vua thánh Louis 9 còn là lý tưởng sống thánh giữa đời cho hàng giáo dân. Với tính tình luôn vui vẻ hồn nhiên, vua Louis 9 đã biết kín múc từ Đức Tin Công Giáo những tâm tình trong sáng giúp nhà vua cư xử nhã nhặn và yêu thương hết mọi người, không phân biệt giai cấp, tuổi tác và giàu nghèo.

Năm 20 tuổi (1234), Vua Louis 9 kết hôn với Marguerite de Provence. Từ đôi uyên ương hạnh phúc đã ra chào đời 11 người con. Sử liệu Pháp mô tả vua Louis 9 có dáng người dong dỏng cao đẹp, với bộ tóc dài màu hung hung, đôi mắt bồ câu và điệu bộ trông giống một thiên thần. Người ta có thể nói vua Louis 9 đã được quyền bính thánh hóa, vì chưng nhà vua đã thực thi quyền bính đến mức trọn hảo. Nét nổi bật trong cuộc đời vua thánh Louis 9 ở chỗ nhà vua dám đảo ngược trật tự xã hội. Đối với nhà vua, bậc người giữ vai chính và quan trọng nhất là những kẻ bé nhỏ và nghèo hèn. Tiếp đến mới tới hạng người chức trọng quyền cao.

Chính vì quan niệm trật tự xã hội như thế nên vua Louis 9 chú trọng rất nhiều đến các hoạt động bác ái. Nhà vua cho xây cất Viện Filles-Dieu / Nữ tử THIÊN CHÚA với mục đích chăm sóc các thiếu nữ hồi tâm phục thiện, sẵn sàng từ bỏ con đường mại dâm. Nhà vua cũng xây cất nhà thương dành riêng cho các bệnh nhân mù lòa. Ngoài ra vua Louis 9 còn cho thành lập không biết bao nhiêu Viện Mồ Côi, Viện Dưỡng Lão và các Trung Tâm Bác Ái.

Năm 1238 vua Louis 9 chính thức đăng quang và lãnh vương miện. Để ghi nhớ biến cố trọng đại này, nhà vua cho xây một dinh thự huy hoàng tráng lệ mang biệt danh Sainte-Chappelle / Thánh-Nguyện-Đường, vẫn còn cho đến ngày nay với mọi nét cao sang lộng lẫy của triều đình vua chúa.

Một ngày, nơi Thánh-Nguyện-Đường có buổi cử hành Thánh Lễ như thường lệ. Vào chính lúc vị Linh Mục giơ cao Bánh Thánh cho tín hữu thờ lạy sau khi truyền phép, bỗng Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể lấy hình Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng hiện ra trong Hình Bánh. Hình bán thân Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng có dung nhan uy nghi tuyệt đẹp. Mọi người hiện diện ngây ngất chiêm ngưỡng Thánh Nhan. Tâm lòng mọi người tràn ngập niềm tri ân cảm tạ THIÊN CHÚA đã thương ban một ân huệ cao trọng dường ấy. Giữa lúc được hưởng đặc ân này, bỗng có người nghĩ đến Vua Louis IX. Họ xin Vị Linh Mục cứ giơ cao Bánh Thánh cho mọi người thờ lạy, đồng thời chạy nhanh báo tin cho Nhà Vua biết và mời Nhà Vua đến chứng kiến tận mắt Phép Lạ tỏ tường.

Nhưng người đưa tin ngạc nhiên biết bao khi nghe Nhà Vua trả lời:

- Ai không tin vào sự hiện diện đích thực của Đức Chúa GIÊSU trong Phép Thánh Thể thì hãy đến Nhà Nguyện mà xem. Phần trẫm, trẫm hằng suy gẫm trong lòng về hồng ân trọng đại Chúa ban cho chúng ta trong bí tích Thánh Thể. Ôi Tình Yêu THIÊN CHÚA thật cao cả biết bao. Được chiêm ngưỡng Phép Lạ tỏ tường không mảy may củng cố Đức Tin kiên vững của trẫm. Được trông thấy tận mắt đâu có ích gì thêm cho Đức Tin trẫm đâu! Đối với trẫm, thật êm ái dịu ngọt biết bao khi được tin nơi Chúa Cứu Thế bằng lời Ngài nói hơn là qua Phép Lạ Ngài làm! Thêm vào đó, trẫm hằng tin tưởng vững chắc nơi sự hiện diện của Đức Chúa GIÊSU trong bí tích Thánh Thể qua lời giảng dạy của Giáo Hội Công Giáo. Với Đức Tin không cần kiểm chứng nơi đời này, chắc chắn trẫm sẽ lãnh nhận một phần thưởng lớn lao nơi đời sau trên Thiên Quốc.

2. ĐỨC CHÚA GIÊSU TỎ HIỆN DƯỚI HÌNH HÀI NHI

Câu chuyện sau đây xảy ra tại thành phố Soissons, thuộc quận Aisne, miền Đông Bắc nước Pháp. Câu chuyện do chính Linh Mục Guibert, Cha Sở giáo xứ Nogent kể lại.

Chúa Nhật Phục Sinh năm 1115, một bà mẹ trẻ Công Giáo khi đi tham dự Thánh Lễ, đem theo cậu bé trai khoảng 5,6 tuổi. Cậu bé còn quá nhỏ để có thể hiểu và theo dõi các nghi thức Phụng Vụ. Thế nhưng, không hiểu tại sao cậu bé cứ tò mò nhìm chăm chú lên bàn thờ, nơi vị Linh Mục đang dâng Thánh Lễ. Sau Truyền Phép, vị Linh Mục giơ cao Bánh Thánh cho mọi người thờ lạy. Bầu khí vừa im lặng vừa trang nghiêm. Vậy mà, cậu bé không hề tỏ ra nhút nhát trước sự hiện diện của đông đảo vô số người. Cậu bé cầm tay mẹ lay mạnh và nói lớn:

- Mẹ ơi, Mẹ xem kìa, Hài Nhi trong tay Cha Sở đang giơ cao đẹp quá!

- Vừa nói, cậu bé vừa tỏ ra vui sướng vì quang cảnh cậu bé được chiêm ngắm. Bà mẹ không trông thấy gì nên ra lệnh cho cậu bé phải giữ thinh lặng. Nhưng cậu bé cứ tiếp tục la lớn tiếng và tỏ lộ nét hân hoan. Khi vị Linh Mục đặt Mình Thánh Chúa xuống và lấy Khăn Thánh phủ lên, thì cậu bé lại nói lớn:

- Mẹ thấy không, Cha Sở che khuất Hài Nhi với chiếc khăn trắng!

Câu nói và nét mặt hớn hở của cậu bé gây xúc động mạnh nơi các giáo dân tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật Phục Sinh năm đó. Mọi người thầm hiểu, để được chiêm ngắm kỳ công THIÊN CHÚA, cần phải có tâm lòng ngây thơ trong trắng của trẻ thơ .. Trong khi người lớn, - đặc biệt những người quá nặng lòng dính bén với của cải vật chất đời này, tách rời lý trí khỏi Đức Tin Công Giáo - thì khó lòng nhận ra ánh sáng được Thiên Chúa mặc khải.

... Vào năm 1180 Đức Chúa GIÊSU Hài Nhi cũng tỏ lộ qua Bánh Thánh khi vị Linh Mục giơ cao cho giáo dân thờ lạy sau khi Truyền Phép. Điều khác biệt là lần này, Đức Chúa GIÊSU Hài Nhi lại tỏ hiện với một Vị Vua. Vị Vua mặc dầu sống trên nhung lụa và thực thi uy quyền, vẫn giữ nguyên tâm lòng ngây thơ trong trắng. Đó là Vua Philippe-Auguste (1165-1223) trị vì nước Pháp 43 năm (1180-1223).

Lên ngôi nối nghiệp vua cha là Louis VII (1120-1180) năm mới bước vào tuổi 16, Vua Philippe-Auguste đã biết dung hòa giữa một cuộc sống tráng lệ nơi hoàng cung với cuộc đời một tín hữu Công Giáo chân chính.

Một thời gian ngắn sau khi đăng quang, Vua Philippe-Auguste tham dự Thánh Lễ tại lâu đài Saint-Léger. THIÊN CHÚA uy quyền muốn thưởng công vị vua trẻ tuổi nhân ái, nên đã tỏ lộ cùng vua dưới hình Hài Nhi. Khi vị Linh Mục giơ cao Mình Thánh Chúa cho mọi người thờ lạy sau khi đọc Lời Truyền Phép, Vua Philippe-Auguste trông thấy rõ ràng hình ảnh Đức Chúa Hài Nhi GIÊSU sáng ngời tuyệt đẹp, xuất hiện giữa đôi tay vị Linh Mục. Chung quanh Hài Nhi GIÊSU có đông đảo các Thánh Thiên Thần sẵn sàng thờ lạy và phục dịch Đấng là Vua các vua.

Trước quang cảnh tuyệt dịu này, Vua Philippe-Auguste vội sấp mình thờ lạy Hài Nhi GIÊSU Thánh Thể. Nhà Vua chỉ biết khiêm tốn hết lòng cảm tạ THIÊN CHÚA đã thương ban cho mình một ân huệ trọng đại dường ấy.

3. PHÉP LẠ THÁNH THỂ TẠI THÀNH PHỐ CẢNG DADE, CHYPRE

Câu chuyện xảy ra vào thế kỷ thứ VI tại thành phố cảng Dade, đảo Chypre.

Trong thành phố có cặp vợ chồng tên Isidore sinh sống. Hai vợ chồng cùng theo lạc giáo do Sévère khởi xướng chống lại Bí Tích Thánh Thể. Nhóm lạc giáo Sévériens cấm ăn thịt và uống rượu để có lý do chỉ dùng nước lã thay vì rượu trong Thánh Lễ.

Một ngày, khi trở về nhà, ông Isidore nghe tin vợ đã trở về với Giáo Hội Công Giáo và đang tham dự Thánh Lễ. Tức giận ông ta hớt hơ hớt hải chạy đến nhà thờ, vừa đúng lúc vợ đang rước Mình Thánh Chúa. Ông túm lấy cổ vợ bóp chặt và buộc vợ phải nhả ra Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Bà vợ kinh hoàng nhả ra Bánh Thánh còn ngậm trong miệng.

Isidore cầm lấy Mình Thánh Chúa đem ra khỏi nhà thờ, vừa ném tung lên vừa buông lời xúc phạm. Sau cùng Mình Thánh Chúa rơi xuống vũng bùn. Kẻ phạm thượng chưa hả cơn giận, vội vàng chạy đến định lấy chân đạp lên Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU. Nhưng cũng chính lúc đó, ông kinh hoàng dừng lại và đứng im như bị trời tròng. Isidore trông thấy ánh sáng chói chang tỏa ra từ Bánh Thánh đã truyền phép và đang treo lơ lửng trên không. Isidore thất kinh hồn vía ôm đầu bỏ chạy một mạch về nhà.

Nhưng Isidore không hề nghĩ đến chuyện ăn năn cũng như đền bù về tội trọng đã xúc phạm đến Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Hai ngày sau, bỗng ông trông thấy xuất hiện trước mặt một hình thù đen đủi xấu xa. Ông ta nhe răng nhìn Isidore với dáng điệu chế nhạo ngăm đe. Người này nói: “Isidore à, ông và tôi, cả hai chúng ta cùng bị kết án muôn đời chịu chung một hình khổ”. Tên lạc giáo Isidore run lẩy bẩy hỏi lại: “Ông là ai?” Người này trả lời: “Tôi là kẻ đã vả vào mặt Đức Chúa GIÊSU nơi nhà thượng tế Cai-pha, trong cuộc Khổ Nạn của Người”, (Gioan 18,22). Nói xong, người này biến mất.

Câu nói và hình thù kinh tởm của người chết hiện về đủ để mở mắt tinh thần ông lạc giáo. Ông Isidore nhận ra ngay tội lỗi tầy trời của mình. Ông thật lòng thống hối và xin ẩn mình vào một đan viện. Nơi đây, ông dành cả cuộc đời để sống Chay tịnh đền bù tội lỗi của mình.

... Câu chuyện sau đây cũng xảy ra vào thế kỷ thứ VI tại thành phố Engine ở Cilicie, miền Nam nước Thổ-nhĩ-kỳ..

Nơi thành phố có hai người sinh sống. Một là tín hữu Công Giáo đạo đức. Một là đồ đệ nhóm lạc giáo Sévère. Nhóm lạc giáo tìm mọi cách đánh phá niềm tin vào Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể. Tạm gọi tín hữu Công Giáo là Bartolomeo và tên lạc giáo là Cyrus. Cyrus không bỏ lỡ cơ hội nào mà không chế nhạo tín hữu Công Giáo. Ông Bartolomeo nhẫn nhục giữ thinh lặng, không hé môi đáp lại.

Để chấm dứt một cuộc nhạo báng kéo dài khá lâu, ông Bartolomeo quyết định ra tay hành động. Ông xin tên Cyrus gởi cho ông mẩu bánh nhóm lạc giáo Sévériens vẫn rước mỗi khi cử hành thánh lễ theo nghi thức của họ. Tên Cyrus hớn hở chấp nhận vì nắm chắc phần thắng. Cyrus sai người mang mẩu bánh đến cho ông Bartolomeo.

Trong khi đó ông Bartolomeo cẩn thận dọn một thùng nước sôi. Khi sứ giả nhóm lạc giáo mang mẩu bánh đến, ông Bartolomeo mạnh tay vứt ngay vào thùng nước. Mẩu bánh tan mất trong nháy mắt trước sự chứng kiến của sứ giả lạc giáo. Liền ngay sau đó, ông Bartolomeo trang trọng mang Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ ông đang cất giữ và cũng bỏ vào thùng nước sôi. Trái với hiện tượng trước đó, Mình Thánh Chúa không chìm xuống, nhưng nằm im trên mặt nước, khô ráo. Nước trong thùng cũng đổi từ độ nóng sang độ lạnh.

Trước sự kiện lạ lùng, ông Bartolomeo dõng dạc nói với sứ giả lạc giáo:

- Anh hãy về nói với ông bạn đồ đệ lạc giáo rằng: “Chỉ có Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU trong Thánh Lễ do Giáo Hội Công Giáo cử hành mới là Mình Thánh Chúa thật”. Anh đã chứng kiến phép lạ Đức Chúa GIÊSU dùng để đánh bại những kẻ nào cả gan xúc phạm đến Ngài.

(Père Eugène Couet, ”Les Miracles Historiques du Saint Sacrement”, Éditions D.F.T, Réédition 1998).



PHÉP LẠ THÁNH THỂ (IV)


Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt

1. PHÉP LẠ THÁNH THỂ TẠI FIRENZE (BẮC Ý)

Thứ sáu 30-12-1230, Cha Huguccion một vị Linh Mục lão thành, cử hành Thánh Lễ nơi nhà thờ Thánh Ambrogio ở ngoại thành Firenze (Bắc Ý). Nhà thờ thuộc về đan viện các nữ tu Biển Đức. Vị Linh Mục tuổi cao mắt kém, khi chịu lễ đã để sót lại nơi Chén Thánh một giọt rượu đã truyền phép, tức là Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Khi đổ rượu vào Chén Thánh để tráng, Cha Huguccion mới thấy là giọt rượu đã chuyển thành máu đỏ thẫm. Trong hai lần liên tiếp, Cha thấy giọt máu phân ra 3 phần đều nhau. Rồi 3 phần giọt máu kết hợp lại và nổi lên trên mặt rượu đổ vào để tráng Chén Thánh, giống như giọt dầu nổi lên trên mặt nước.

Cha Huguccion bàng hoàng xúc động. Lòng Cha trào dâng niềm kính trọng thánh thiêng. Cha bỗng bật lên khóc nức nở. Các nữ tu Biển Đức vội vàng chạy lên bàn thờ vì nghĩ rằng có lẽ vị Linh Mục cao tuổi bị mệt bất ngờ chăng. Nhưng khi lên đến nơi các Chị mới hiểu sự việc và kinh ngạc trước Phép Lạ Thánh Thể. Chị Taida - Nữ Đan Viện Trưởng - nhanh chân đi lấy một bình thủy tinh dùng để đựng Dầu Thánh và đưa cho vị Linh Mục. Cha Huguccion trang trọng đổ vào bình thủy tinh Giọt Máu Thánh cùng với phần rượu để tráng Chén Thánh. Sau đó, Cha lấy lại bình tĩnh và tiếp tục dâng hết Thánh Lễ.

Giọt Máu Thánh được kính cẩn đặt vào Nhà Tạm. Nhưng 3 ngày sau, một Phép Lạ Thánh Thể khác diễn ra. Xuyên qua bình thủy tinh, người ta trông thấy Giọt Máu Thánh giờ đây chuyển thành Tấm Thịt Thánh và treo lơ lửng bên trong bình thủy tinh, không chạm vào thành bình thủy tinh. Ngoài ra phần rượu chưa được truyền phép bỗng chuyển thành màu hồng rồi khô đi và biến mất, không để lại dấu vết gì cả.

Tiếng vang Phép Lạ Thánh Thể đồn ra khắp thành Firenze. Vị Giám Mục giáo phận lúc bấy giờ là Đức Cha Ardingo. Ngài cử nhiều Linh Mục đến nhà thờ Thánh Ambrogio để lấy bình thủy tinh đựng Phép Lạ Thánh Thể và đem về điều tra thật kỹ lưỡng. Sau đó Đức Cha giữ thánh tích Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ tại tòa giám mục.

Tuy nhiên sắp đến ngày mừng lễ Thánh Ambrogio (339-397), các nữ tu Biển Đức muốn xin Đức Giám Mục trao lại thánh tích. Các Chị nhờ các Linh Mục dòng Phanxicô đến tòa giám mục rước về. Thế là Thánh Thể Phép Lạ được long trọng rước về nhà thờ Thánh Ambrogio giữa tiếng hát chúc tụng các bài Thánh Thi và Thánh Ca của một đoàn ngũ đông đảo các tín hữu Công Giáo đạo đức và sốt sắng.

Về phần Đức Cha Ardingo, vị Giám Mục dửng dưng cứng cỏi và thiếu lòng yêu mến kính trọng đối với Phép Lạ Thánh Thể, ngài sớm bị chính Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể khiển trách. Ngay đêm sau đó trong giấc ngủ, Đức Cha Ardingo nghe một tiếng nói rõ ràng rót vào tai: “Hỡi giám mục, người tiếp rước Ta lạnh lùng và trả lại Ta cũng lạnh lùng trơ trụi!” Tiếng nói lập lại ba lần như thế. Vị giám mục giật mình thức giấc. Lời trách cứ khiến vị giám mục mở mắt tinh thần. Ngài hiểu ngay thái độ bất xứng của mình đối với Phép Lạ Thánh Thể trọng đại. Đức Cha Ardingo thật lòng ăn năn thống hối. Ngài lập tức đặt làm một Nhà Tạm bằng ngà chạm các mảnh mỏng bằng vàng và phủ khăn nhung màu đỏ thẫm. Đức Cha cho người mang Nhà Tạm đến nhà thờ các nữ tu Biển Đức để các Chị đặt vào Nhà Tạm Mình Thánh Phép Lạ Đức Chúa GIÊSU KITÔ.

Thế nhưng Mình Thánh Phép Lạ vẫn còn ở trong bình thủy tinh bình thường. Một lần nữa, chính Đức Mẹ MARIA lại can thiệp để Mình Thánh Chúa được cất giữ cách tương xứng. Đức Mẹ hiện ra trong giấc mơ với một thiếu nữ thuộc đan viện Thánh Ambrogio. Đức Mẹ truyền cho thiếu nữ báo cho Chị Margarita - nữ tu lo phòng thánh - biết: Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU vẫn chưa có nơi trú ngụ xứng đáng. Được ơn trên soi sáng, Chị Margarita hiểu ngay phải chuẩn bị một Chén Thánh thật đẹp thay cho bình thủy tinh đang đựng Mình Thánh Chúa. Sau khi đặt các nhà điêu khắc tài ba làm một Chén Thánh tuyệt mỹ, Đức Cha Ardingo đích thấn đến nhà thờ Thánh Ambrogio. Chính ngài đặt Mình Thánh Phép Lạ vào trong Chén Thánh mới rồi long trọng đặt vào Nhà Tạm.

2. PHÉP LẠ THÁNH THỂ TẠI REGENSBURG (NAM ĐỨC)

Thứ Năm Tuần Thánh 25-3-1255 một Linh Mục ở Regensburg, thuộc bang Bavière, Nam Đức, mang Mình Thánh Chúa cho một bệnh nhân hấp hối. Trên đường đi, khi ra tới cửa thành, Cha bỗng gặp một con lạch bị nước lũ tràn ngập, chỉ còn một tấm ván mỏng manh. Vừa đặt chân lên tấm ván, vị Linh Mục bị trợt té và làm văng bình đựng Mình Thánh Chúa. Trước cảnh tượng này, một nhóm tín hữu Công Giáo vội vàng chạy đến cứu giúp. Họ cố gắng vượt mức mới có thể vớt được Bánh Thánh. Mặc dầu đây là cuộc phạm thánh ngoài ý muốn, các tín hữu đạo đức vẫn cảm thấy đau lòng và quyết định cử hành lễ nghi phạt tạ bí tích Thánh Thể.

Ngay ngày hôm ấy, dân thành Regensburg khởi công xây một nhà nguyện tại chính nơi xảy ra tai nạn Mình Thánh Chúa bị rơi. Nhà nguyện nhỏ bằng gỗ thật đơn sơ. Khi nhà nguyện hoàn tất người ta liền đặt Mình Thánh Chúa và ngày 8-9-1255, Đức Cha Albert, giám mục sở tại, làm nghi thức cung hiến nhà nguyện. Nhà nguyện được dâng kính Đấng Cứu Thế - in honorem Salvatoris.

Kể từ sau khi nhà nguyện được thánh hiến, các tín hữu Công Giáo kéo đến đông đảo kính viếng nhà nguyện. Có lẽ chính vì lòng đạo đức tôn kính Mình Thánh Chúa của các tín hữu Regensburg mà Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể đã làm một phép lạ. Phép lạ xảy ra năm 1257 như dấu chứng khẳng định Đức Tin của các tín hữu Công Giáo đối với bí tích Tình Yêu Nhiệm Mầu. Câu chuyện diễn tiến như sau.

Một Linh Mục đến dâng Thánh Lễ nơi nhà nguyện. Vào lúc đọc lời truyền phép rượu, vị Linh Mục bỗng đâm ra nghi ngờ. Ngài phân vân tự hỏi:
- Làm sao lời do người phàm đọc lại có sức nhiệm mầu biến đổi rượu thành Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ được?
Tâm hồn vị Linh Mục thật sự bị bấn loạn bởi tư tưởng gây hoang mang cho niềm tin tuyệt đối vào sự hiện diện đích thật của Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể. Trong lúc do dự và không giơ cao Chén Thánh cho giáo dân thờ lạy thì vị Linh Mục bỗng nghe tiếng động nhẹ từ phía Cây Thánh Giá bên trên Nhà Tạm. Đôi tay của tượng Đức Chúa GIÊSU chịu đóng đanh từ từ tiến về phía vị Chủ Tế và giật lấy Chén Thánh giơ cao cho tín hữu thờ lạy Máu Thánh Chúa.
Trước phép lạ tỏ tường, vị Linh Mục liền quì sụp xuống. Niềm nghi nan giờ đây nhường chỗ cho nỗi lo âu kinh hoàng, cùng lúc nẩy sinh Đức Tin không lay chuyển. Vị Linh Mục khiêm tốn xưng thú lỗi lầm, công khai xin tha thứ và cảm động khóc ròng. Như dấu hiệu chứng nhận lòng thống hối và đức khiêm tốn của vị Linh Mục, Đức Chúa GIÊSU Cứu Thế hạ đôi tay xuống và đặt Chén Thánh vào đôi tay vị Linh Mục.

Kể từ sau phép lạ Thánh Thể, nhà nguyện trở thành nơi hành hương dấu ái của các tín hữu Công Giáo thành Regensburg cũng như của toàn nước Đức. Mỗi lần đến kính viếng nhà nguyện, các tín hữu thường quảng đại dâng cúng tiền bạc cũng như lễ vật.

Năm 1620 chính quyền thành phố khởi công xây cất một thánh đường lớn bên cạnh nhà nguyện nhỏ và nhà nguyện nhỏ cũng được sửa lại bằng đá. Đức Giám Mục giáo phận giao cho các Tu Sĩ dòng Thánh Augustino trông coi nhà thờ và nhà nguyện. Các Tu Sĩ có nhiệm vụ lo phần Phụng Vụ, đọc kinh nguyện và phục vụ các tín hữu hành hương. Các vị chu toàn bổn phận cho đến năm 1803 là năm bị tục hóa. Đến năm 1838 nhà thờ bị hư hại rồi bị tàn phá bình địa. Nhưng nhà nguyện nhỏ nơi diễn ra Phép Lạ Thánh Thể vẫn tiếp tục kiên cố với thời gian. Nhà nguyện được tu sửa và được trang hoàng thật đẹp. Ngày 18-9-1855 Đức Cha Valentino tái thánh hiến nhà nguyện.

Ngày nay nhà nguyện có bị cũ đi, nhưng Cây Thánh Giá với tượng Đức Chúa GIÊSU KITÔ làm phép lạ vẫn còn đó như dấu chứng Đức Tin kiên vững của các tín hữu Công Giáo Đức. Họ thường xuyên đến kính viếng nhà nguyện và thờ lạy Đức Chúa GIÊSU KITÔ Thánh Thể ẩn náu trong Nhà Tạm.

3. PHÉP LẠ THÁNH THỂ TẠI SAN-PIETRO DI PATERNO (NAM Ý).

Ngày 28-1-1772 tại làng San-Pietro di Paterno cách thành phố Napoli (Nam Ý) 2 ngàn dặm, xảy ra một vụ phạm thánh trầm trọng. Bọn gian phi lẻn vào nhà thờ ăn trộm 2 Bình Thánh đựng đầy Mình Thánh Chúa.

Mấy ngày sau, ông Pasquale Capozzi - một nông dân ở làng gần đó - trông thấy nơi đống phân bón bên cạnh lẫm lúa nhà ông có một chân của Bình Thánh bị đánh cắp. Tức tốc mọi người ra công tìm kiếm các dấu vết của Bánh Thánh. Nhưng tuyệt nhiên không thấy Bánh Thánh nào. Ai ai cũng nghĩ có lẽ nhóm gian phi đã thủ tiêu các Bánh Thánh hầu không để lại dấu vết nào .. Dần dần dân làng quên bẵng vụ trộm Mình Thánh Chúa.

Nhưng THIÊN CHÚA Quan Phòng xếp đặt cách khác.

3 tuần sau, vào chiều 19-2, Giuseppe Orefice 17 tuổi từ Napoli trở về Paterno. Khi rẻ vào đường cái từ Capodichino đến Casoria anh bỗng trông thấy một đám ruộng rực sáng trong nông trại của ông Pasquale Capozzi. Chiều hôm sau, anh cũng trông thấy quang cảnh tương tự. Anh lo sợ đem câu chuyện kể cho song thân nghe. Nhưng mọi người chế nhạo anh.

Sáng sớm hôm sau nữa, Giuseppe cùng với thân phụ là ông Angelo và em trai Giovanni 10 tuổi lên đường đến thành phố Napoli. Khi đi ngang cánh đồng của nông trại ông Capozzi, cảnh lạ tái xuất hiện. Cậu Giovanni nhìn thấy và reo vui. Giuseppe cũng trông thấy như em trai. Nhưng ông Angelo lại không thấy gì cả.

Câu chuyện đến tai 2 vị Linh Mục thuộc giáo phận Napoli, Cha Geromino và Cha Giacomo Guarino. Cùng với Cha Sở, vào đêm khuya 24-2, cả 3 vị đến nơi xảy ra hiện tượng lạ. Giuseppe cùng em trai Giovanni và một trẻ khác tên Thomas Piccini tháp tùng 3 Linh Mục. Đến nơi được một lúc thì cả 3 trẻ được trông thấy hiện tượng lạ. Ngoài 3 trẻ ra, không ai khác được trông thấy ánh sáng lạ. Mọi người đến nơi 3 trẻ chỉ và tìm xem có gì khác thường không. Nhưng không ai tìm ra điều gì khác lạ.

Tối hôm sau, Cha Giuseppe Lindinier cùng đi với 3 Linh Mục nói trên. Giờ đây 4 vị Linh Mục xác tín rằng, THIÊN CHÚA đã chọn các trẻ thơ để tỏ lộ các bí nhiệm. Vì thế các vị mang thêm 4 trẻ khác. Đến nơi được một lúc thì các thiếu niên trông thấy ánh sáng lạ bao quanh gốc cây bạch dương. Mọi người lại ra công tìm kiếm, nhưng không thấy gì đặc biệt.

Các Linh Mục bỏ ra về. Sau đó nhóm trẻ cũng theo gót các vị. Nhưng khi các trẻ ra đến đường cái thì đám đông nơi cánh đồng lại la ó ồn ào. Nhóm trẻ như bị sức thần lôi kéo vội vàng trở lui. Các trẻ cũng như bị sức thần ném ngã rạp xuống đất. Vừa khi lóc ngóc đứng dậy chúng lại bị luồng ánh sáng chiếu ra từ cây bạch dương làm lóa mắt. Rồi từ luồng sáng chói chang này một chim bồ câu cất cánh bay lên và biến mất.

Mọi người tức tốc đào bới mảnh đất chung quanh cây bạch dương. Bỗng cậu bé Thomas Piccini thấy một vật tròn trắng tinh nằm trên đám cỏ xanh. Đến gần thì thấy đó là Mình Thánh Chúa. Một người nhanh chân chạy đi tìm Cha Giacomo Guarino. Lúc ấy là 2 giờ sáng. Đến nơi, Cha Giacomo vô cùng cẩn trọng dùng tay bới đất tìm kiếm Mình Thánh Chúa. Cha thật an ủi khi tìm thấy 40 Bánh Thánh vẫn còn nguyên vẹn. Cha để ngay vào Bình Thánh và đặt Bình Thánh trên bàn thờ thô sơ vừa được dựng lên dưới chân cây bạch dương. Với giọng run run cảm động Cha cất tiếng hát Kinh Tạ Ơn THIÊN CHÚA - TE DEUM.

40 Bánh Thánh nằm dưới đất gần một tháng nhưng không mảy may hư hại, mặc dầu mùa đông giá lạnh với những cơn mưa tầm tã. Thêm vào đó, phần đất chạm tới Mình Thánh Chúa vẫn khô ráo. Tuy nhiên, dân làng chưa thỏa nguyện. Bởi lẽ khi vụ phạm thánh diễn ra, trong Nhà Tạm có đến 2 Bình Thánh chứa khoảng 100 Bánh Thánh. Vậy thì các Bánh Thánh còn lại bị chôn dấu nơi đâu?

Tối hôm sau đó, nhóm trẻ hướng dẫn cuộc tìm kiếm lại trông thấy ánh sáng lạ. Chúng vội báo tin và mời Cha Giacomo Guarino đến ngay. Mọi người tìm kiếm thật lâu nhưng không thấy gì. Bỗng chốc Giuseppe Orefice quì sụp xuống nơi mảnh đất cần phải đào bới. Cha Guarino dùng dao để bới cho nhanh. Cha bỗng nghe một tiếng động nhẹ như tiếng bẻ bánh và Cha thấy miếng đất như chiếc vung chụp bể ra. Trước mắt Cha xuất hiện hơn 50 Bánh Thánh trắng tinh, nguyên vẹn y như 40 Bánh Thánh tìm thấy tối hôm trước.

Diễn tả sao cho hết nỗi niềm hân hoan cùng lòng tri ân THIÊN CHÚA của dân làng Paterno. Họ long trọng rước Mình Thánh Chúa về Nhà Thờ. Tại đây một lần nữa mọi người cất tiếng hát Kinh tạ ơn TE DEUM.

(Père Eugène Couet, ”Les Miracles Historiques du Saint Sacrement”, Éditions D.F.T, Réédition 1998).



PHÉP LẠ THÁNH THỂ (V)


Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt

1. MÁU THÁNH NHUỘM ĐỎ KHĂN THÁNH VÀ KHĂN TRẢI BÀN THÁNH.

Boxtel là thành phố nhỏ nằm cách Bois-le-Duc 2 dặm bên nước Hòa-Lan. Nơi đây vào năm 1380 đã diễn ra một Phép Lạ Thánh Thể. Câu chuyện diễn tiến như sau.

Linh Mục Eloi Aecker quản nhiệm thánh đường Đức Chúa Thánh Thần ở Essche. Một hôm Cha đến dâng Thánh Lễ tại nhà thờ Thánh-Phêrô ở Bostel nơi bàn thờ dâng kính Ba Vua. Sau khi đọc Lời Truyền Phép Bánh và Rượu, không rõ vì lúng túng thế nào, Cha làm đổ Chén Thánh. Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU đổ ra. Máu Thánh ban đầu mang màu rượu nho trắng, bỗng biến nhanh thành màu đỏ thắm của Máu, ghi rõ vết trên Khăn Thánh và khăn trải bàn thánh. Thật ra trước đó, tận nơi kín ẩn tâm hồn, Cha Eloi Aecker bị dằn vặt bởi nỗi nghi ngờ về sự hiện diện đích thực của Đức Chúa GIÊSU KITÔ trong Hình Bánh và Hình Rượu sau khi vị Linh Mục đọc Lời Truyền Phép. Giờ đây nhìn thấy tận mắt Rượu Thánh mang màu đỏ thắm của máu tươi, Cha cảm thấy kinh hoàng. Cùng lúc, Đức Tin của Cha được củng cố.

Tuy nhiên, Cha Eloi Aecker muốn giữ kín Phép Lạ Thánh Thể, không tỏ lộ cho ai biết. Sau Thánh Lễ, Cha kín đáo mang Khăn Thánh và Khăn trải Bàn Thánh về nhà. Cha dự định giặt sạch các dấu vết Máu in trên 2 Khăn Thánh rồi sẽ mang trả lại Nhà Thờ.

Nhưng càng giặt Cha càng cảm thấy bàng hoàng sợ hãi. Bởi lẽ, các vết Máu Thánh vẫn giữ nguyên trên 2 Khăn Thánh. Cha vội mang 2 Khăn Thánh ra con suối bên cạnh để giặt. Suối này chảy ra bờ sông Dommel. Cha thầm nghĩ: Có lẽ nước suối chảy sẽ có sức mạnh tẩy sạch các vết Máu in rõ nơi 2 Khăn Thánh. Nhưng hoài công. Các vết Máu vẫn giữ nguyên màu sắc như ban đầu. Cha Eloi Aecker lại tìm cách khác: sau khi giặt Cha đem phơi 2 Khăn Thánh thật lâu ngoài nắng. Cha làm như thế rất nhiều lần, nhưng vô ích. Mặc dầu thế, Cha vẫn không tiết lộ Phép Lạ Thánh Thể. Mãi đến lúc gần sinh thì, trên giường dọn mình chết, Cha mới trình bày mọi chi tiết liên quan tới Phép Lạ Thánh Thể cho Cha Giải Tội biết, trước sự hiện diện của 2 nhân chứng.

Sau khi Cha Eloi Aecker qua đời, Phép Lạ Thánh Thể được công bố. Kể từ đó tín hữu Công Giáo thành Boxtel cũng như toàn vùng được củng cố trong Đức Tin và được tăng thêm lòng sùng kính đối với bí tích Thánh Thể. Họ lũ lượt kéo đến kính viếng 2 Khăn Thánh có in dấu Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Tín hữu âu yếm đặt tên cho thánh tích Thánh Thể là Khăn Máu-Thánh thành Boxtel. Nhà thờ lưu giữ 2 Khăn Thánh trở thành địa điểm hành hương nổi tiếng nhất trong vùng.

Lòng sùng kính của các tín hữu Công Giáo Hòa Lan đối với Phép Lạ Thánh Thể thành Bostel đã được Đức Chúa GIÊSU thưởng công bội hậu. Các tín hữu hành hương nhận được rất nhiều phép lạ. Nhiều người được chữa khỏi bệnh hoạn tật nguyền. Trên tường nhà thờ gắn đầy bảng đá ghi ơn. Các nạn chống do các tín hữu khỏi bệnh để lại nhiều đến độ người ta phải đem đốt đi.

Các tín hữu Công Giáo còn đi xa hơn trong Đức Tin đối với Phép Lạ Thánh Thể. Họ uống nước nơi con suối Cha Eloi Aecker đã giặt Khăn Thánh. Với lời khẩn cầu tha thiết, nhiều người cũng được khỏi bệnh hoặc được giải thoát khỏi ma quỉ ám hại.

Tâm tình các tín hữu sùng kính đối với Phép Lạ Thánh Thể kéo dài trong vòng hai thế kỷ, cho đến lúc các bè rối nổi lên chống lại Giáo Hội Công Giáo. Để gìn giữ khỏi các vụ phạm thánh, các tín hữu Công Giáo đem Khăn Máu-Thánh thành Boxtel dấu ẩn nơi kín đáo an toàn. Sau đó họ đưa Khăn Thánh về thành Bois-le-Duc rồi về đan viện Thánh-Micae ở Anvers. Sau cùng nhà thờ Hoogstraten được chọn làm nơi cất giữ thánh tích Phép Lạ Thánh Thể kể từ ngày 20-5-1652.

Bao thế kỷ đã trôi qua, nhưng Khăn Máu-Thánh thành Boxtel vẫn giữ nguyên vẹn không bị hư hại hay biến đổi với thời gian.

2. XÚC PHẠM ĐẾN THÁNH THỂ: BỊ TRỪNG PHẠT

Sau nhiều năm phá rối Anh quốc bằng những luận cứ độc hại nhằm đánh tan nguồn gốc thánh thiêng của Giáo Hội Công Giáo và tín điều bất khả ngộ của Đức Giáo Hoàng, vào năm 1381, ông tổ lạc giáo Wiclef John (1320-1384) bắt đầu công khai xúc phạm đến bí tích Thánh Thể. Ông bác bỏ Đức Tin và công kích giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo liên quan đến việc Truyền Phép. Ông tuyên truyền:

- Bản chất của bánh và rượu vẫn giữ nguyên sau khi vị linh mục đọc lời Truyền Phép. Đức Chúa GIÊSU KITÔ quả thật không hiện diện thực sự trong bí tích Thánh Thể. Vì thế, Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể không xứng đáng cho chúng ta tôn kính và thờ lạy!

Wiclef John còn cả gan nói lộng ngôn:

- Loài vật đứng hàng thứ yếu sau loài người, vẫn xứng đáng cho chúng ta dành mọi tôn kính hơn là “Bánh” sau khi được “Truyền Phép” trong Thánh Lễ!

Điều đáng buồn là lạc thuyết của Wiclef đã gặp được nhiều đồ đệ ngông cuồng của vương quốc Anh thời đó. Xin trưng dẫn một trường hợp điển hình.

Một thợ may chuyên nghiệp tên John giao trọn linh hồn và xác cho bè rối Wicléfisme. Ông trở thành người cuồng tín số một của lạc giáo. Ông dồn mọi nhiệt huyết cho việc loan báo tà thuyết. Ông tuyên truyền tại tư gia. Ông thuyết giảng cho đám đông dân chúng. Chính trong một buổi rao truyền lạc giáo nơi công cộng mà ông John bị giáo quyền bắt giam. Người ta đưa ông ra xử nơi tòa án của nhà thờ Thánh Phaolo ở thủ đô Luân-Đôn.

Đức Cha Thomas d'Arundel, Tổng Giám Mục Canterburry bấy giờ, tra vấn bị cáo liên quan đến Đức Tin của bị cáo đối với bí tích Thánh Thể. Ông John đáp ngay không chút do dự:

- “Bánh” được “Truyền Phép” chỉ là “bánh” được “chúc lành”, không hơn không kém. Tôi xin quả quyết như thế và tôi cũng trọn lòng tin tưởng như vậy!

Mặc cho mọi lý lẽ vững mạnh nhất vẫn không thuyết phục và lay chuyển được tâm trí ông lạc giáo John. Sau cùng, Đức Tổng Giám Mục Thomas truyền cho ông John phải sấp mình thờ lạy Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Ông John vẫn ngoan cố đáp:

- Tôi thà thờ lạy con nhện, cho dù đó là con vật đáng ghê tởm nhất, còn hơn quì gối trước “Bánh Thánh Thể” của các ông!

Trời Cao tức khắc đáp lại thách thức “động trời” của ông lạc giáo. Ngay lúc ấy, mọi người có mặt nơi phiên xử đều trông thấy một con nhện khổng lồ khủng khiếp rơi từ trần nhà thờ xuống trước mặt ông John. Con nhện rơi thẳng trên đôi môi kẻ vừa nói lời lộng ngôn. Chưa hết, con nhện tìm mọi cách đi thẳng vào miệng ông John. Phải khó nhọc lắm người ta mới kéo con nhện ra khỏi miệng ông John.

Sự kiện trên đây diễn ra trước sự chứng kiến của nhiều nhân vật đạo đời thuộc vương quốc Anh. Ngoài các vị Giám Mục Công Giáo còn có sự hiện diện của ông Edmond, công tước miền York và ông Thomas d'Oxone, quan chưởng ấn của triều đình. Tất cả kinh hoàng trước sự trừng phạt nhãn tiền của THIÊN CHÚA đối với kẻ phạm thượng. Đức Tổng Giám Mục Thomas d'Arundel liền đứng lên thuyết giảng về sự hiện diện thật sự của Đức Chúa GIÊSU KITÔ trong Hình Bánh và Hình Rượu sau khi vị Linh Mục đọc lời “Truyền Phép” trong Thánh Lễ.

3. TỪ ĐỒ ĐỆ LẠC GIÁO ĐẾN HIỆP SĨ ĐỨC CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ

Năm 1382 diễn ra Công Nghị Luân-Đôn, dưới quyền chủ tọa của Đức Cha Guillaume Courtenay. Công Nghị bác bỏ và kết án các lý thuyết của bè rối Wicléfisme. Trong những ngày Công Nghị nhóm họp, giáo quyền thủ đô Luân-Đôn tổ chức cuộc rước kiệu Thánh Thể trọng thể với mục đích đền bù phạt tạ những lộng ngôn xúc phạm đến Đức CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ. Đức Giám Mục Guillaume Courtenay cũng tham dự cuộc rước kiệu. Ngài đi chân không, cùng với toàn thể hàng giáo sĩ và tất cả các tín hữu Công Giáo trong giáo phận, gồm đủ mọi thành phần xã hội với tuổi tác khác nhau, từ già đến trẻ. Mọi người muốn phạt tạ Thánh Thể Đức Chúa GIÊSU KITÔ bằng nước mắt và bằng lời nguyện cầu tha thiết. Xin THIÊN CHÚA nhân lành tha thứ và ban ơn hoán cải cho các tín hữu lầm lẫn đi theo bè rối Wicléfisme.

Hôm sau cuộc rước kiệu, ông Cornélius Glovius đến tham dự Thánh Lễ nơi tu viện các Anh Em Giảng Thuyết dòng thánh Đa-Minh. Ông Cornélius Glovius là hiệp sĩ nổi tiếng của vương quốc Anh vừa là thành viên cuồng nhiệt của bè rối. Người ta không rõ lý do nào thúc đẩy ông đến dự Thánh Lễ, chỉ biết rằng, chính nơi đây THIÊN CHÚA chờ đợi ông. Vào lúc Linh Mục giơ cao Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU cho mọi người thờ lạy, ông Cornélius không thấy gì khác ngoài Tấm Bánh Trắng. Nhưng khi vị Linh Mục phân chia Bánh Thánh, ông hiệp sĩ lạc giáo trông thấy giữa các ngón tay vị Linh Mục rõ ràng ba Miếng Thịt, chứ không phải hình dạng Bánh. Rồi khi vị Linh Mục cầm một phần Thánh Thể và giơ cao bên trên Chén Thánh thì phần Thánh Thể ấy lại trở về với hình dạng Bánh Thánh, nhưng mang chữ GIÊSU viết bằng máu.

Hiệp sĩ Cornélius Glovius là người duy nhất được đặc ân trông thấy hiện tượng lạ trên đây. Bởi vì, khi ông chất vấn các đầy tớ tháp tùng ông thì những người này quả quyết họ không trông thấy gì.

Ngày hôm sau, nhằm Chúa Nhật lễ trọng kính THIÊN CHÚA Ba Ngôi, một vị Linh Mục thời danh thuyết giảng trước công chúng tại nhà thờ Thánh Phaolô. Ông Cornélius Glovius cũng đến đây và xin vị Linh Mục kể lại cho đám đông nghe hiện tượng lạ chính ông được diễm phúc chứng kiến ngày hôm trước. Sau lời kể của vị giảng thuyết, ông Cornélius Glovius liền đứng lên và làm chứng cho những lời kể của vị Linh Mục là đúng sự thật. Ông còn quả quyết thêm:

- Chính THIÊN CHÚA can thiệp để biến đổi con tim chai cứng của tôi thành con tim khiêm tốn. Tôi xin lớn tiếng tuyên xưng rằng: tôi tin vững vàng nơi sự hiện diện thật sự của Đức Chúa GIÊSU KITÔ trong Bí Tích Thánh Thể.

Tất cả các tín hữu Công Giáo có mặt nơi nhà thờ Thánh Phaolô ở thủ đô Luân-Đôn hôm ấy cảm động và vui mừng không kể xiết. Bởi vì, mới mấy ngày trước đây, ông còn là một đồ đệ cuồng tín trung thành của lạc thuyết Wicléfisme. Vậy mà giờ đây chỉ một sớm một chiều ông trở thành người bênh vực và là hiệp sĩ của Đức Chúa GIÊSU KITÔ Thánh Thể. Từ đó, với lý luận vững chắc đi kèm cuộc hoán cải công khai, ông Cornélius Glovius trở thành một trong những kẻ đánh bại các luận cứ sai lầm của bè rối Wicléfisme.

(Père Eugène Couet, ”Les Miracles Historiques du Saint Sacrement”, Éditions D.F.T, Réédition 1998).



PHÉP LẠ THÁNH THỂ (VI)


Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt

THÁNH NỮ CHIARA ASSISI VÀ CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ
Thánh nữ Chiara (1193-1253) thành Assisi sống đồng thời với thánh Phanxicô (1182-1226), cũng thành Assisi (Trung Ý). Chiara đã nối gót thánh Phanxicô trên con đường yêu chuộng sự đơn sơ và nghèo khó. Chính thánh nữ đã thành lập dòng các Nữ Tu Kín Clarisses.

Thánh nữ Chiara có lòng đặc biệt yêu mến Chúa GIÊSU Thánh Thể. Khi viết cuộc đời thánh nữ, không sử gia nào bỏ sót câu chuyện thánh nữ Chiara đã đuổi quân giặc hồi giáo chạy tán loạn, nhờ Chúa GIÊSU Thánh Thể.

Vào năm 1243 - tức 10 năm trước khi thánh nữ Chiara qua đời - một nhóm quân hồi giáo, do tên trùm Vitale d'Aversa cầm đầu, nhất quyết xâm lăng Đan viện các nữ tu Kín Clarisses ở San Damiano (Trung Bắc Ý).

Đan viện thinh lặng, an bình, nghèo khó của các nữ tu thiên thần, bất ngờ bị phá rối vì những tiếng chửi rủa, gào thét, đe dọa của nhóm người hồi giáo quá khích và khát máu. Họ muốn xâm phạm nơi thánh cũng như những người thánh trú ẩn trong đan viện. Vì biết rõ dụng ý của họ nên một người dân thành Assisi đã tức tốc báo tin cho các nữ tu biết. Các nữ tu xôn xao hốt hoảng. Như đàn gà con ngơ ngác, các nữ tu vội chạy đến phòng Viện Mẫu Chiara. Lúc ấy thánh nữ Chiara đang phủ phục cầu nguyện. Nghe tiếng động, thánh nữ vội đứng lên để tiếp đón đàn con run rẩy sợ hãi. Thánh nữ Chiara điềm tĩnh ra lệnh:

- Tất cả các con phải xếp hàng trong trật tự và lòng tin, đi xuống nhà nguyện, vừa đi vừa giữ thinh lặng theo luật dạy. Bởi vì, không có bất cứ lý do gì cho phép chúng ta được phá luật!
Các nữ tu vâng lời, run rẩy đi xuống nhà nguyện. Thánh nữ Chiara đi sau cùng.

Ngôi nhà nguyện thô sơ chỉ được chiếu sáng bởi hai ngọn đèn dầu. Một ngọn trước Nhà Tạm và một ngọn nơi các nữ tu quỳ hát kinh Thần Vụ. Hai ngọn đèn tuy nhỏ, nhưng đủ sức tỏa sáng và làm tăng nét linh thiêng của nơi thánh. Ngọn đèn nhắc nhở sự hiện diện thật sự của Chúa GIÊSU, ngự trong Bánh Thánh nơi Nhà Tạm.

Các nữ tu sốt sắng cầu nguyện. Từ bên ngoài vọng vào những tiếng la hét ầm ĩ. Một nữ trợ sĩ hốt hoảng chạy thẳng vào nhà nguyện. Chị dừng lại nơi ngưỡng cửa và nói lớn: “Mẹ ơi, họ tới trước cửa rồi!” Nghe thế, mọi người gập mình xuống như linh cảm giờ sau cùng đã điểm. Các nữ tu hoảng sợ, nhưng Mẹ Bề Trên Chiara thì không. Mẹ bình tĩnh ra đứng giữa nhà nguyện và nói:

- Các con đừng sợ. Họ chỉ là một nhóm ít người và ở bên ngoài đan viện. Còn chúng ta, chúng ta đang ở đây, bên trong nhà nguyện, và với Chúa GIÊSU. Các con nên nhớ lại lời Ngài phán: “Các con không bị đụng đến một sợi tóc!” Chúng ta là những chim bồ câu của Ngài. Ngài sẽ không để cho những kẻ hung dữ xúc phạm đến chúng ta ..

Bên ngoài tiếng la hét mỗi lúc một vang to, át cả tiếng nói nhẹ nhàng của mẹ bề trên Chiara. Thấy rõ lời nói của mình vẫn chưa đủ sức trấn an các Nữ Tu Kín quá sợ hãi, thánh nữ Chiara bèn thưa chuyện trực tiếp với Chúa GIÊSU Thánh Thể:

- Lạy Chúa GIÊSU dịu hiền của con, xin tha thứ cho Chiara tội nghiệp này, nếu con dám đặt tay vào nơi mà chỉ mình vị Linh Mục mới được đụng tới. Nhưng ở đây chỉ có Chúa và chúng con thôi. Và một người trong chúng con phải thưa với Chúa: “Xin đến”. Đôi bàn tay con đã được nước mắt tẩy luyện, nên chúng có thể chạm đến ngai tòa Chúa.

Cầu nguyện xong, thánh nữ Chiara đi thẳng tới Nhà Tạm và trân trọng cầm lấy Bình Thánh. Thánh nữ giơ cao Bình Thánh và từ từ ra khỏi nhà nguyện, vừa đi vừa cất hát Thánh Vịnh. Các nữ tu khác theo sau. Ra tới cửa, Mẹ Chiara nói với chị trợ sĩ canh cổng: “Mở cửa ra đi con”. Chị canh cổng run rẩy đáp lại: “Nhưng thưa mẹ, họ đang ở ngoài kìa! Mẹ không nghe tiếng họ la hét sao?” Mẹ Chiara điềm tĩnh lập lại: “Mở cửa ra đi con” – “Không được đâu mẹ ơi! Họ sẽ tức tốc đột nhập vào nhà!”. Lần này, mẹ Chiara dùng quyền bề trên nói: “Mở cửa ra. Đây là lệnh truyền, con phải tuân phục!” Chị canh cổng vừa mở cửa vừa run. Các Nữ Tu Kín khác vội vàng phủ chiếc khăn che mặt và sẵn sàng đối diện với cái chết ..

Khi cánh cửa từ từ mở ra, mẹ Chiara đi hai ba bước ra ngoài, tay giơ cao Bình Thánh đựng Mình Thánh Chúa GIÊSU. Bình Thánh là tấm khăn duy nhất che kín khuôn mặt mẹ. Trong khi đó, đôi mắt mẹ Chiara chỉ dán chặt vào Bình Thánh mà thôi. Dáng điệu mẹ Chiara trông trang nghiêm và đẹp như một thiên thần. Nhưng đối với nhóm quân hồi giáo thì mẹ Chiara lại xuất hiện như một nữ tướng, uy linh và khủng khiếp! Do đó, khi trông thấy cánh cửa vừa hé mở, nhóm hồi giáo reo hò đắc thắng, chạy ùa vào cửa. Nhưng tức khắc họ phải đứng khựng lại. Rồi không hiểu sức thần nào xua đuổi, họ thất kinh hồn vía, vừa la rú, vừa tung nhau bỏ chạy như điên

Thế là mẹ Chiara cùng các chị nhà Kín Clarisses vui mừng vội vàng đóng kín cửa lại, rồi vừa đi vừa hát kinh TE DEUM cảm tạ Thiên Chúa. Các chị đi trong nghiêm trang và trật tự. Mẹ Chiara giải thích:

- Chúa GIÊSU Thánh Thể chiến thắng tất cả. Thánh Thể là sức mạnh của Thiên Đàng và của trần gian, bao lâu trần gian còn cần những trợ giúp. Nhờ công nghiệp vô biên của Mình Máu Thánh Chúa GIÊSU KITÔ, các tín hữu Công Giáo sẽ luôn luôn chiến thắng được kẻ thù! ..

PHÉP LẠ THÁNH THỂ TẠI LỘ ĐỨC
Kể từ cuộc hành hương toàn quốc Pháp đầu tiên vào năm 1888 các cuộc hành hương Lộ Đức nối tiếp đều mang một nét đặc thù. Đó là các cuộc rước kiệu Thánh Thể trọng thể, bày tỏ lòng tôn sùng kính yêu của các tín hữu Công Giáo đối với Chúa GIÊSU KITÔ ẩn mình trong bí tích Thánh Thể.

Thật ra, Đấng Cứu Thế - Chúa GIÊSU KITÔ - không bị dân chúng lãng quên trong lúc họ biểu lộ lòng ngưỡng mộ đối với Hiền Mẫu Ngài, Nữ Vương Rất Thánh MARIA. Thêm vào đó, nếu Từ Mẫu Thiên Quốc làm phép lạ chữa lành bệnh tật phần hồn lẫn phần xác, chính là nhờ quyền năng vô biên của Con Dấu Ái Mẹ, Chúa GIÊSU KITÔ. Xác tín này thật rõ ràng, bởi lẽ, các tín hữu hành hương luôn luôn cảm nhận sự hiện diện trìu mến của Đấng Cứu Độ nơi Hang Đá Lộ Đức tràn đầy phúc lành. Tất cả đều ý thức rằng: Chỉ mình Thiên Chúa là Chủ Tể mọi việc kỳ diệu - qui facit mirabilia solus.

Thế nhưng, năm 1888 là năm đáng ghi nhớ nhất. Nữ Trinh Rất Thánh MARIA tự ẩn mình đi để làm nổi bật nét đẹp uy linh cao cả của Chúa GIÊSU KITÔ, Người Con Chí Thánh ẩn mình trong bí tích Thánh Thể. 18 thế kỷ sau cuộc đời dương thế của Đức GIÊSU KITÔ nơi Thánh Địa, các tín hữu hành hương Lộ Đức như sống lại quang cảnh ghi trong Phúc Âm: Chúa Cứu Thế khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem, hàng ngàn người hiện diện đã lớn tiếng tung hô Hosanna - Vạn Tuế Con Vua Đavít. Và Chúa GIÊSU đi qua, vừa chúc lành đám đông vừa chữa họ khỏi tất cả bệnh hoạn tật nguyền, thể theo ước nguyện thầm kín của từng người thành khẩn kêu cầu cùng Ngài.

Tờ Nhật Ký Lộ Đức - Le Journal de Lourdes, số xuất bản tháng 8 năm 1888 đã tường thuật tỉ mỉ biến cố trọng đại như sau.

Lời kinh Magnificat - Linh hồn con ngợi khen Chúa - là lời kinh có âm vang thật đặc biệt tại Lộ Đức, bởi vì, đó là lời kinh được các tín hữu diễn tả lòng cảm tạ sâu xa về các ân huệ nhận lãnh. Và ngày 21-8-1888, lời kinh Magnificat này mang trọn chiều kích ngợi khen cùng tri ân của đoàn người hành hương. Phải thành thật thú nhận rằng, nếu được phép soi thấu tâm tư kín ẩn của từng người, hẳn chúng ta sẽ đọc được phép lạ Đức Mẹ ban trên bình diện thiêng liêng. Thế nhưng, ngày hôm ấy, Đức Mẹ như giả điếc làm ngơ trước mọi lời khấn cầu của con cái Mẹ, đang lê lết vì các khổ đau phần xác. Không một bệnh nhân nào được Đức Mẹ chữa lành.

Thêm vào đó, ngày đầu tiên của cuộc hành hương toàn quốc Pháp đã kết thúc trong thảm sầu như bầu khí ảm đạm của cả ngày. Vào lúc đoàn tín hữu xếp hàng đôi, tay cầm nến sáng, chuẩn bị cuộc rước đuốc kính Đức Mẹ Lộ Đức, thì hỡi ôi, trời bỗng lên cơn giông tố bão bùng, mưa đổ như trút nước. Mọi người nhanh nhân tìm chỗ trú ẩn .. Đâu ai ngờ rằng, thử thách này tiên báo ngày mai tươi sáng hơn, không xóa mờ trong tâm trí.

Chứng kiến cảnh tượng buồn thương của các tín hữu hành hương - tuy vẫn giữ vững lòng tin cậy mến -, Trời Cao đã gợi ý cho một linh mục thánh thiện. Cha thầm nghĩ: “Tại sao không tổ chức một buổi rước kiệu Mình Thánh Chúa, mang Chúa GIÊSU Thánh Thể đi qua giữa đoàn bệnh nhân? Tại sao không khuyến khích các tín hữu dâng lên Chúa GIÊSU Thánh Thể lời tung hô đi kèm lời khẩn cầu chữa lành bệnh tật phần xác, y như khi Chúa GIÊSU còn sống nơi dương thế?”

Lời đề nghị của vị linh mục thánh thiện được Cha Picard hân hoan tiếp nhận. Cha tức khắc thu thập những câu chúc tụng, các lời van xin ghi trong Phúc Âm rồi in trên một tờ giấy khổ nhỏ và phân phát cho các tín hữu hành hương. Đúng 4 giờ chiều ngày 22-8-1888, Mình Thánh Chúa GIÊSU được long trọng rước ra từ Đền Thánh, đi giữa đoàn tín hữu hành hương tay cầm nến sáng. Sau khi đoàn rước đi qua Hang Đá Đức Mẹ Lộ Đức, các lời khẩn cầu bắt đầu vang lên với trọn nhiệt tâm, nhiệt huyết, không thể nào diễn tả cho hết.

Khi đầu đoàn rước tiến ra bờ sông Gave, mọi người hiện diện cùng có chung một tư tưởng: “Lộ Đức không còn là Lộ Đức mà là thành Giêrusalem thời Chúa GIÊSU KITÔ. Chúa Cứu Thế đang xuất hiện sống động và khải hoàn với những công trình kỳ diệu .. Suốt đời, tôi sẽ không bao giờ quên tiếng kêu, quên đám đông cùng với các lời khẩn thiết hòa lẫn nước mắt chan hòa tuôn rơi”.

Một luồng gió thánh linh đầy phấn khởi thổi trên đầu mọi tín hữu hiện diện. Từ trên các băng-ca, các chiếc giường, các xe lăn, những bệnh nhân đang đau đớn nơi thể xác, đồng thanh van xin. Hòa nhịp với lời cầu thống thiết, toàn thể các tín hữu hành hương cũng cất tiếng kêu xin, lập lại lời của người bất toại và người mù thành Giêricô thưa cùng Chúa GIÊSU rằng: “Lạy Chúa, nếu Ngài muốn, xin Ngài chữa con lành bệnh!”

Ngay lúc ấy, trước Hang Đá Đức Mẹ, ở giữa đám đông, ở giữa tình thương trìu mến, ở giữa những gì thâm sâu nhất, cao cả nhất trong tâm hồn con người, trước mặt Con Thiên Chúa phúc lành, trước sự chứng kiến của toàn dân nước Pháp, 8 người bệnh nằm liệt giường được chữa khỏi và đứng thẳng lên: “Surge, tolle grabatum tuum et ambula - Hãy đứng dậy, vác giường mà về nhà đi!”, Mát-thêu, chương 9 câu 6.

Làm sao diễn tả cho hết quang cảnh cảm động trên đây? Khi lời kinh Magnificat long trọng cất lên, vang dội và chiến thắng, không ai cầm được nước mắt cảm tạ và tri ân.

Người ta dễ dàng tưởng tượng ra quang cảnh đầy phấn khởi của buổi lễ cử hành ngay đêm hôm ấy. Cuộc rước đuốc diễn ra trong vòng hai tiếng đồng hồ, làm sáng rực toàn khu vực Trung Tâm Thánh Mẫu Lộ Đức: từ Hang Đá cho đến Đền Thánh và mọi lối đi dọc theo bờ sông Gave. Sau khi hát Kinh Tin Kính, đoàn tín hữu hành hương vang lên những lời chúc tụng như: Vạn tuế Chúa GIÊSU KITÔ! Vua Chiến Thắng! Vạn Tuế Đức Bà Lộ Đức! Hoan hô Đức Thánh Cha Lêô 13!

Sáng hôm sau 23-8-1888, muôn người như một, chỉ mở miệng để nói về cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa và biến cố xảy ra vào buổi chiều hôm trước. Vì thế, mỗi người tự nguyện sẽ tham dự cuộc kiệu Mình Thánh Chúa vào lúc 4 giờ chiều hôm ấy. Nói thế để hiểu rằng, toàn khu vực Trung Tâm Thánh Mẫu Lộ Đức đông chật tín hữu hành hương. Hàng trăm bệnh nhân nằm trên cáng được khiên ra đặt trên lối đi.

Khi Chúa GIÊSU Thánh Thể xuất hiện, tức khắc tái diễn quang cảnh xảy ra vào buổi chiều hôm trước. Hay nói đúng hơn, mọi tâm hồn như sốt sắng hơn, cảm động hơn và phấn khởi tươi vui hơn. Mọi người cất tiếng hát, đọc kinh và kêu cầu với những lời ghi trong Phúc Âm: “Lạy Chúa GIÊSU, xin thương chữa lành chúng con! Lạy Chúa GIÊSU, kẻ Thầy yêu đang ốm nặng!” Người đau bệnh cũng như kẻ lành mạnh, tất cả đều giơ tay khẩn thiết hướng về phía Mình Thánh Chúa.

Thế là, Chúa GIÊSU Thánh Thể Lộ Đức liền ra tay ban phúc lành, đáp trả lời kêu cầu của mọi người thiện tâm. Một chủng sinh bị bệnh đang ở giai đoạn cuối đời, liền đứng thẳng lên khỏi chiếc cáng đang nằm, và mạnh dạn tiến bước theo sau chiếc kiệu Mình Thánh Chúa. Rồi một bệnh nhân thứ hai và một bệnh nhân thứ ba, cũng đứng lên hân hoan bước theo sau Chúa GIÊSU Thánh Thể.

Các nhân viên khiêng cáng phải khó nhọc lắm mới giữ được các bệnh nhân nằm im. Mọi người như cuốn hút vào bầu khí hân hoan phúc lành, cảm tạ và tri ân. Khi ba người khỏi bệnh tiến gần đến Hang Đá Lộ Đức giữa tiếng vỗ tay vang dội, thì những vụ khỏi bệnh khác được tiếp diễn. Một người, hai người, rồi nhiều người được lành mạnh, đứng thẳng lên và vui tươi nhập bọn với anh chị em khác.

Ôi, diễn tả sao cho cùng những tâm tình kín ẩn của mọi người hiện diện lúc ấy. Không ai bảo ai, tất cả đồng thanh cất tiếng tung hô: “Hosanna - Vạn tuế Con Vua Đavít! Chúc tụng Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến!”

Kể từ sau biến cố trọng đại ấy, hàng năm khi diễn ra các cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa nơi Hang Đá Lộ Đức, các tín hữu hành hương như cảm thấy lòng mình tràn ngập lòng tin/cậy/mến đối với Mình Thánh Chúa GIÊSU và không ngớt lời chúc tụng ngợi khen. Và Chúa GIÊSU Thánh Thể cũng rộng tay ban phát các ơn lành hồn xác cho tất cả những ai cầu khẩn Ngài với trọn lòng tin/cậy/mến.


PHÉP LẠ THÁNH THỂ TẠI PERPIGNAN

Ngày 15-9-1793, trong tuần bát nhật lễ Sinh nhật Đức Mẹ, ngôi làng bé nhỏ Pézilla-de-la-Rivière, thuộc giáo phận Perpignan, miền Nam nước Pháp, đã vui mừng trông thấy thánh đường được mở cửa. Lý do là vì cuộc cách mạng 1789 vẫn còn ghi đậm nét kinh hoàng. Các Linh Mục, Giám Mục, Hồng Y - những vị trung thành với Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ - bị bắt, bị giết hoặc bị lưu đày. Đoàn chiên vắng bóng chủ chăn, bơ vơ tang tác thật tội nghiệp thảm thương.

Linh Mục Jacques Pérone, cha sở họ đạo, từ nơi trú ẩn, can đảm trở về giáo xứ. Cha muốn lợi dụng trong chớp nhoáng khoảng thời gian yên tĩnh để mang lại cho đoàn chiên niềm an ủi được tham dự thánh lễ. Được mật báo, toàn thể tín hữu có mặt nơi nhà thờ. Mọi người vừa sốt sắng vừa trang nghiêm. Không thể diễn tả hết lòng hân hoan của bổn đạo. Nhưng niềm vui chỉ diễn ra vỏn vẹn 3 hôm. Ngày 17-9-1793, với con tim đau thắt, cha Jacques Pérone đành lên đường trở về nơi lưu đày tận bên nước Tây-Ban-Nha. Trước khi khuất hẳn, cha đau đớn quay lại nhìn giáo xứ thân yêu lần cuối. Đôi mắt đẫm lệ, cha buột miệng kêu lên: “Ôi, nếu có thể, thì không gì mà tôi không đánh đổi để chỉ trở lại đó một khắc đồng hồ thôi!”

Lời thì thào của cha Jacques Pérone đã lọt tai một thiếu nữ can đảm, đạo đức và khiêm tốn. Đó là cô Rose Llorens. Cô thầm đoán Bánh Thánh còn bị bỏ quên trong Nhà Tạm ở nhà thờ. Với lòng tin tưởng vững vàng nơi sự trợ giúp của Thiên Chúa, cô cương quyết tự nguyện sẽ giải thoát Chúa GIÊSU Thánh Thể khỏi các bàn tay xúc phạm của quân cách mạng vô luân vô thần.

.. Ngày 26-12-1793 ông Jean Bonafos về nhậm chức tân thị trưởng Pézilla. Ông là kẻ hiền đức và là người kính sợ Thiên Chúa. Thấy cơ hội thuận tiện, cô Rose trình bày ước nguyện với tân thị trưởng. Ông Jean Bonafos tức khắc chấp thuận. Ngày 7-2-1794, cùng với một người thứ ba, ông thị trưởng và cô Rose đến nhà thờ. Ông thị trưởng tự tay mở cửa Nhà Tạm. Quả thật, ông trông thấy Bánh Thánh lớn nằm trong Mặt Nhật và 3 Bánh Thánh nhỏ còn nguyên với Bánh Thánh thứ tư bẻ đôi. Cả 4 Bánh Thánh nhỏ đặt trong Bình Thánh. Với đức tính cẩn trọng, ông Jean Bonafos lấy 4 Bánh Thánh nhỏ bỏ vào Khăn Thánh rồi ông đưa tất cả cho cô Rose cùng với mặt nhật có Bánh Thánh lớn.

Cô Rose Llorens trao mặt nhật với Bánh Thánh lớn tận tay bà Thomase, phu nhân thị trưởng. Chính ông thị trưởng Jean Bonafos đặt mặt nhật có Bánh Thánh vào rương bằng gỗ rồi dấu kín trong nhà. Mình Thánh Chúa GIÊSU ở tại nơi trú ẩn khiêm tốn này gần trọn 7 năm, tức từ 7-2-1794 đến 9-12-1800. Chúa GIÊSU KITÔ không bị lãng quên. Cả hai vợ chồng ông thị trưởng luôn luôn dâng kính Chúa GIÊSU Thánh Thể lòng tôn thờ yêu mến thâm sâu.

Trong khi đó cô Rose trao 4 Bánh Thánh nhỏ cho thân mẫu là bà Anne-Marie Llorens Estéva. Theo lời khuyên của mẹ Joséphine de Romanya, Bề Trên tu viện Chúa Cứu Thế ở Perpignan, bà Anne-Marie đặt 4 Bánh Thánh trong một bình bằng thủy tinh, hoàn toàn trắng, rồi bọc kín với chiếc bị nhỏ bằng tơ lụa màu đỏ. Xong, bà đặt vào một ngăn tủ nhỏ dấu kín trong tường.

Nếu vì lý do cẩn trọng, gia đình ông thị trưởng Bonafos không thể tiếp rước nhiều người đến tôn thờ Chúa GIÊSU Thánh Thể, thì trái lại, gia đình cô Rose Llorens mở rộng cửa cho mọi người. Các tín hữu Công Giáo đạo đức, kín đáo đến thờ lạy Chúa GIÊSU KITÔ đang ẩn mình trong Bánh Thánh. Sau này, các giáo dân cao niên trong xứ đạo kể lại rằng, họ thường đem các trẻ em đến nhà cô Rose. Họ bảo chúng quì trước ngăn tủ có dấu Mình Thánh Chúa và dạy chúng cầu nguyện. Hàng năm đến ngày Thứ Năm Tuần Thánh giáo dân trong làng thường dựng một bàn thờ trước ngăn tủ và trang hoàng hoa tươi thật đẹp. Rồi họ cùng nhau quì im lặng chầu Mình Thánh Chúa.

.. Cuối năm 1800 là thời điểm đáng ghi nhớ đối với dân làng Pézilla-de-la-Rivière: chấm dứt những ngày bị bách hại tang tóc và cuộc rước khải hoàn Chúa GIÊSU Thánh Thể trở về ngôi thánh đường thân yêu.

Ngày 5-12-1800 cha phó Honoré Siuroles từ nơi trú ẩn trở về trước, đã đến nhà bà Anne Llorens. Cha trang trọng mở ngăn tủ nhỏ để lấy ra Bình Thánh bằng thủy tinh đựng 4 Bánh Thánh. Chính lúc này đây, cha phó vô cùng ngạc nhiên khi trông thấy 4 Bánh Thánh vẫn giữ nguyên nét trắng tinh toàn vẹn và Bình Thánh bằng thủy tinh lại được mạ vàng! Mạ vàng ngay bên trong lớp thủy tinh! Phép lạ trong phép lạ!

4 ngày sau, đến phiên cha sở Jacques Pérone trở về. Cha đến nhà ông thị trưởng Jean Bonafos lấy Bánh Thánh lớn và long trọng rước về thánh đường. Thật là một đại lễ cho toàn thể giáo xứ Pézilla-de-la-Rivière. Cha sở đặt Bánh Thánh lớn và 4 Bánh Thánh nhỏ vào trong Bình Thánh mới và để vào Nhà Tạm nơi bàn thờ chính. Gần một thế kỷ sau, tức năm 1875, khi thay Bình Thánh mới và đặt ra bên ngoài cho các tín hữu Công Giáo đến thờ lạy và kính viếng, giáo quyền lại một lần nữa có dịp ghi nhận rằng, các Bánh Thánh vẫn được bảo tồn nguyên vẹn, y như lúc được cất vào Nhà Tạm ngày 15-9-1793.

(P. Eugène COUET, “Les Miracles Historiques du Saint Sacrement”, Éditions D.F.T, Réédition 1998, trang 226-230 / 150-161).


SÙNG KÍNH ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM VÀ THÁNH THỂ CHÚA GIÊSU


Chiều 30-5-1862, ngày áp chót tháng Hoa kính Đức Mẹ, sau Kinh Tối, thánh Gioan Bosco (1815-1888) nói với các linh mục của ngài như sau:

Tôi muốn kể anh em nghe giấc mơ tôi thấy cách đây vài hôm. Anh em cứ tưởng tượng chúng ta đứng trên mỏm đá nằm trơ trọi giữa biển cả bao la. Anh em không trông thấy đất liền, ngoài mảnh đất nhỏ bé nằm dưới chân. Trên biển cả mênh mông, anh em trông thấy vô số tàu chiến. Mũi tầu giống như chiếc mỏ bằng sắt, bén như lưỡi dao, có thể đâm thủng và cắt đứt những vật nó chạm tới. Tàu trang bị đủ mọi thứ khí giới và các chất nổ gây hỏa hoạn. Tất cả các tàu chiến cùng tiến đánh một chiếc tàu trông thật quan trọng và vĩ đại hơn mọi chiếc tàu trong trận chiến. Chúng hùng hổ xông vào chiếc tàu lớn, đánh phá tứ tung, cố gắng gây thương tổn và hủy hoại càng nhiều càng tốt. Trong khi đó chiếc tàu lớn được một số thuyền và ghe buồm hộ tống. Các ghe thuyền nhận lệnh từ chiếc tàu lớn và thi hành chỉ thị, làm sao để có thể ứng phó với vô số tàu địch đang tấn công tứ phía. Thêm vào đó, gió thổi thật mạnh, khiến biển cả giao động kinh hoàng, gần như gây thuận lợi cho đối phương.

Bỗng nhiên từ giữa trận chiến nơi biển cả mênh mông, xuất hiện hai chiếc cột cao lớn, đặt gần nhau. Trên một chiếc cột có tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm. Dưới chân bức tượng là tấm bảng mang hàng chữ: “Phù Hộ các Giáo Hữu” Trên chiếc cột thứ hai, cao hơn và vĩ đại hơn, có Mặt Nhật Mình Thánh Chúa. Dưới chân Mặt Nhật cũng có tấm bảng mang hàng chữ: “Cứu Độ các Tín Hữu” .

Vị thuyền trưởng tối cao trên chiếc tàu lớn chính là Đức Giáo Hoàng, thủ lãnh Giáo Hội Công Giáo Roma. Đứng trên tàu, Đức Thánh Cha chứng kiến cái hung hãn của địch thù cũng như hiểm nguy của các tín hữu. Trận chiến mỗi lúc càng trở nên khốc liệt. Đức Thánh Cha cố gắng lèo lái chiếc thuyền tiến lên đứng giữa hai chiếc cột lớn. Thấy thế, các chiếc tàu địch khác lại dồn toàn lực để tấn công và ngăn cản không cho chiếc tàu lớn của Đức Thánh Cha di chuyển. Tuy nhiên, dù dùng đủ mọi mánh lới cộng với đủ mọi thứ khí giới, các chiếc tàu địch vẫn không phá hủy và ngăn cản được chiếc tàu lớn. Trái lại, chiếc tàu lớn từ từ tiến lên một cách vững chắc và an toàn, hướng về hai chiếc cột trên đó có tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm và Mặt Nhật Mình Thánh Chúa GIÊSU. Dĩ nhiên chiếc tàu lớn cũng bị bắn phá, nhưng không có thiệt hại nào đáng kể. Trong khi các tàu địch bị hư hại nặng nề. Có nhiều tàu bị vỡ tung và chìm sâu dưới lòng đại dương. Các địch thù đùng đùng nổi giận. Họ dùng gươm giáo đâm thủng loạn xạ, kèm theo những lời lộng ngôn và chửi rủa thậm tệ.

Đang hồi chiến đấu dữ dội Đức Giáo Hoàng bị thương, ngã quỵ xuống. Những người chiến đấu với ngài vội chạy đến, đỡ ngài lên. Nhưng ngài lại ngã xuống và tắt thở. Tức khắc một vị giáo hoàng khác được bầu lên thay thế, lèo lái chiếc tàu. Cuộc bầu cử nhanh chóng đến độ hung tín Đức Giáo Hoàng qua đời được loan đi cùng lúc với tên vị tân Giáo Hoàng kế vị. Điều này làm cho các địch thủ chán nản và mất hết nhiệt khí để chiến đấu.

Vị tân Giáo hoàng dẹp bỏ và vượt qua được hết mọi cản trở. Ngài lái chiếc tàu tiến thẳng đến hai cột trụ và len vào giữa. Ngài dùng dây xích ở đầu tàu cột vào chân trụ có Mặt Nhật Mình Thánh Chúa GIÊSU. Sau đó ngài lấy dây xích thứ hai ở đuôi tàu và cột vào trụ có bức tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm. Thế là diễn ra cảnh tượng vô cùng hỗn độn. Tất cả các chiếc tàu địch tìm đường chạy trốn. Trong cảnh hỗn độn ấy, chính các tàu địch lại đụng vào nhau, phá hoại nhau, khiến cho các tàu địch bị bể và chìm sâu xuống biển.

Kể đến đây, thánh Gioan Bosco ngừng lại nhìn cha Michele Rua (1837-1910) và hỏi: “Cha nghĩ thế nào về giấc mơ tôi vừa kể?”. Cha Michele Rua đáp: “Theo thiển ý con, Hai chiếc cột cứu thoát chính là hình ảnh của lòng sùng kính Đức MARIA Vô Nhiễm và Thánh Thể Chúa GIÊSU KITÔ” . Thánh Gioan Bosco đáp: “Đúng. Cha trả lời thật đúng. Các tàu chiến địch thù tức là các cuộc bách hại. Sẽ có những thử thách lớn lao cho Giáo Hội Công Giáo. Nhưng có phương thế duy nhất để cứu Giáo Hội khỏi mọi hiểm nguy. Đó là việc sùng kính Đức MARIA Vô Nhiễm và siêng năng xưng tội cùng rước Mình Thánh Chúa” .

(“LE CHRIST AU MONDE”, 10/1991, trang 330-331).

CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ VÀ DÂN PAPOUASIE


Dòng Thừa Sai Thánh Tâm Chúa GIÊSU và Mẹ MARIA là hội dòng của cha Damien de Veuster (1840-1889) , vị linh mục tông đồ người cùi. Cha có tên thật là Joseph de Veuster và đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolo 2 tôn phong chân phước ngày Chúa Nhật 5-6-1995 tại thủ đô Bruxelles của vương quốc Bỉ.

Dòng Thừa Sai Thánh Tâm có nhà Mẹ tại đường Picpus của thủ đô Paris và hoạt động tại nhiều nước trên thế giới. Sau đây là chứng từ của cha Eugène Sourisseau, Thừa Sai Thánh Tâm, về lòng yêu mến Thánh Thể của trẻ em và của người dân Papouasie, thuộc Thái Bình Dương. Cha viết:

Đầu năm 1992, tôi bắt đầu đi một vòng thăm viếng các bộ lạc ở Oro, Siguf, Tafad, nằm trong thung lũng Odab. Chúng tôi đến giáo xứ lớn Onongé.

Vào một buổi sáng thứ hai, tôi rời Siguf và tiến về Oro. Tôi dự định ở lại đây một tuần để viếng thăm và ban các bí tích cho các tín hữu. Làng Oro có 400 dân, trong đó 82 người trẻ được cắp sách đến trường. Trong số các người trẻ có 16 trẻ trai và trẻ gái cộng thêm với một vài người lớn, đang chuẩn bị rước lễ lần đầu.

Buổi sáng hôm ấy - vai mang bị hành lý - tôi tiến về Oro, lần theo những con đường làng đầy cỏ và ướt át. Đang đi, bỗng cậu bé Adigai Vénansio xuất hiện. Cậu bé vui mừng chạy đến bên tôi và nói: “Cha đưa bị của cha cho con mang”. Thế là cả hai chúng tôi cùng vui vẻ tiến về Oro. Chẳng bao lâu sau, một nhóm 6-7 trẻ đi học ở Oro lại nhập bọn với chúng tôi. Chúng tôi hăng hái tiến bước.

Vừa đi tôi vừa hỏi: “Này Vénansio, Chúa nhật tới con sẽ được rước lễ lần đầu. Được rước lễ lần đầu rồi, sẽ có gì đổi khác nơi con không?” . Đang đi, Vénansio bỗng đứng hẳn lại. Cậu bé đăm đăm nhìn tôi rồi trả lời: “Thưa cha, Chúa GIÊSU và con, chúng con sẽ trở thành MỘT”.

Câu trả lời của cậu bé Adigai Vénansio làm tôi cảm động và vui mừng. Không ngờ cậu bé nhà quê đơn sơ chất phác đã hiểu đúng ý nghĩa của bí tích Thánh Thể và tầm quan trọng của việc rước lễ lần đầu. Chúng tôi linh mục, những thừa tác thánh cử hành bí tích Thánh Thể mỗi ngày. Chúng tôi dâng Mình và Máu Thánh Chúa GIÊSU cho Thiên Chúa Cha để cầu xin ơn cứu độ cho toàn thế giới. Chính chúng tôi là những người đầu tiên phải sống linh đạo mà bé Adigai Vénansio đã tìm ra, thật giản dị, nhưng vô cùng sâu xa: Chúa GIÊSU và con, chúng con là MỘT.

Câu nói của cậu bé Adigai Vénansio cũng gói trọn tâm tình đạo đức của người dân Papouasie đối với bí tích Thánh Thể. Trong cuộc đời truyền giáo tại Papouasie, tôi kinh nghiệm rằng: lòng sùng kính Thánh Thể Chúa GIÊSU là phương thế tuyệt hảo nhất để tăng cường lòng tin.

Chúa GIÊSU và con, chúng con là MỘT: Một khi đã sống đúng chân lý này, người tín hữu sẽ thường xuyên đến viếng thăm Chúa GIÊSU, ẩn mình trong Thánh Thể, ngự trong Nhà Tạm. Sự hiện diện thật sự của Chúa GIÊSU trong Bí Tích Thánh Thể là suối nguồn tình yêu và ơn thánh, có sức mạnh biến đổi tâm lòng con người. Đó cũng là lý do thúc đẩy các tín hữu Công Giáo, sống trong những vùng núi xa xôi hẻo lánh, đã đi bộ suốt 4-5 ngày - vừa đi vừa về - để có thể tham dự một thánh lễ và lãnh nhận bí tích Giải Tội.

Có những làng không có linh mục thường xuyên đến dâng thánh lễ và ban bí tích Giải Tội, nhưng ít nhất là các tín hữu biết cất giữ Mình Thánh Chúa để thăm viếng, thờ lạy và lãnh nhận vào mỗi Chúa Nhật, khi họ tụ họp nhau để cử hành Phụng Vụ Lời Chúa.

“Thật, Thầy bảo thật anh em: Nếu anh em không ăn Thịt và uống Máu Con Người, anh em không có sự sống nơi mình. Ai ăn Thịt và uống Máu Thầy, thì được sống muôn đời, và Thầy sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì Thịt Thầy thật là của ăn, và Máu Thầy thật là của uống. Ai ăn Thịt và uống Máu Thầy, thì ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy” (Gioan 6,52-56).

( “Annales d'Issoudun”, Juin/1995, trang 205-206)

BÍ TÍCH THÁNH THỂ



... Lạy Chúa GIÊSU đang ngự thật trong Bí Tích Thánh Thể vì yêu con .. con xin vĩnh viễn dâng hiến Chúa trọn người con. Con xin từ khước tất cả những gì thuộc quyền con, để làm lễ tế dâng lên Chúa hầu Chúa trở thành Đấng duy nhất ngự trong con, nguyên lý tuyệt đối cuộc đời con. Xin Chúa điều khiển mọi hoạt động của con. Không còn gì cũng chẳng có gì thuộc về con, ôi Chúa GIÊSU dấu ái của con! Xin Chúa ngự vào lòng con, linh hồn con và chữa con khỏi bệnh hoạn tật nguyền ..

Đó là lời thề anh Giovanni Nadiani (1885-1940) dâng lên Chúa GIÊSU Thánh Thể khi gia nhập dòng Thánh Thể. Anh bắt đầu Năm Tập thứ nhất tại Castelvecchio di Moncalieri, tỉnh Torino (Bắc Ý) năm 22 tuổi. Anh quyết định chọn dòng Thánh Thể vì được hồng ân Chúa GIÊSU Thánh Thể lôi cuốn vào Tình Yêu vô biên của Ngài. Lời mời gọi của các tu sĩ Thánh Thể do thánh Pierre Julien Eymard (1834-1868) sáng lập cũng thu hút anh: “Nếu Chúa GIÊSU sống động và ngự thật trên bàn thờ cũng như trong Nhà Tạm, nếu Ngài là tất cả, thì sao bạn lại muốn tìm kiếm nơi khác? Hãy đến với Ngài và bạn sẽ tìm thấy tất cả!”

Nơi Tập Viện thầy Giovanni được giao nhiệm vụ coi nhà Mặc Áo (Phòng Thánh). Thầy tận tâm chu toàn công việc và rất sung sướng vì được dịp ở gần Chúa GIÊSU Thánh Thể, Đấng ngự trong Nhà Tạm. Ngày 7-11-1909 thầy Giovanni bắt đầu tuần tĩnh tâm chuẩn bị tuyên khấn. Thầy hân hoan với ý nghĩ rồi đây mình sẽ thuộc trọn về Chúa GIÊSU KITÔ. Trong đơn xin tuyên khấn gửi lên Cha Bề Trên Cả, thầy Giovanni Nadiani viết: Con vui mừng biết bao! Con phấn khởi với ơn gọi thiên thần của con! Con nồng nhiệt ước muốn làm cho mọi người biết đến Chúa GIÊSU, Chúa GIÊSU Thánh Thể dấu ái của lòng con! Nếu Chúa muốn con trở thành Linh Mục, thì ngay khi vừa lãnh chức phó tế, con sẽ chạy như bay qua các thành thị. Con sẽ giơ cao Mặt Nhật Mình Thánh Chúa, để mọi người trông thấy Chúa GIÊSU Thánh Thể và con sẽ nói với họ: ”Đây là Ngôi Lời của Thiên Chúa trở thành Bánh Thánh nuôi sống! Đây là Tình Yêu! Đây là Tình Yêu! .. Thế nhưng Chúa muốn con phụng sự Người trong chức vụ tu huynh, và chính lòng con cũng ao ước như thế ..”

Sau khi tuyên khấn, thầy Giovanni chu toàn các công tác khiêm tốn như: lo nhà Mặc Áo, y tá, giúp văn phòng báo chí của dòng và quét dọn nhà cửa. Qua bất cứ công việc nào, dù nhỏ mọn đến đâu, thầy Giovanni cũng chỉ có một mục đích duy nhất. Thầy không ngừng lập đi lập lại: “Cuộc đời tôi là để cầu nguyện. Bất cứ lúc nào, nếu có ai hỏi tôi đang làm gì, thì tôi chỉ trả lời: tôi đang thờ lạy Chúa GIÊSU KITÔ ..”

Chúa GIÊSU Thánh Thể gồm trọn lý tưởng sống cuộc đời thầy Giovanni. Thầy ghi trong nhật ký: “Chúa GIÊSU Thánh Thể là Đấng chỉ đạo, là nhiệt huyết, là mặt trời, là tình yêu, là sự thiện và là tất cả cuộc đời tôi”. Như thế, dầu không phải nhà giảng thuyết hùng hồn hoặc nhà truyền giáo nổi danh, thầy Giovanni vẫn có thể trở thành vị đại tông đồ của Chúa GIÊSU. Bởi vì, qua thầy, Chúa GIÊSU trở thành mặt trời soi chiếu đường đi cho vô số anh chị em đồng loại. Thầy giống như Mặt Nhật Mình Thánh Chúa, không nói, cũng chẳng hề áp đặt điều gì cho ai, nhưng để trưng bày và chiếu sáng Chúa GIÊSU KITÔ trước mặt mọi người.

Tháng 8 năm 1914 đệ nhất thế chiến bùng nổ với chiến tranh khai mào giữa hai nước Áo và Serbi. Tháng 5 năm 1915, nước Ý nhảy vào vòng chiến. Thầy Giovanni tha thiết cầu nguyện xin Chúa ban ơn Hòa Bình cho thế giới. Thế nhưng, khi nhận lệnh nhập ngũ, thầy mau mắn tuân hành. Thầy hy sinh cởi bỏ “tu phục” để khoác lên mình “chiến y”. Chỉ có điều đặc biệt, thầy để bộ râu ra rậm và dài, chứng tỏ cho mọi người thấy thầy là tu sĩ mang quân phục!

Nơi chiến trường thầy Giovanni Nadiani anh dũng phục vụ. Thầy xung phong đi hàng đầu trong các trận đánh khốc liệt. Thầy cũng xin cấp trên cho phép mang Mình Thánh Chúa đến các binh sĩ bị trọng thương. Năm 1919, thế chiến chấm dứt, thầy Giovanni sung sướng trở về tu viện. Thầy tiếp tục yêu mến Chúa GIÊSU Thánh Thể và Mẹ MARIA cho đến khi qua đời ngày 6-1-1940, sau 33 năm sống tinh thần “Nhà Tiệc Ly”, nếm trước niềm vui Thiên Quốc!

(Paolo Risso, “GIOVANNI NADIANI”, Editrice Elle Di Ci, 1995).



Ông Casimir và bà Anna là hai hội viên hết lòng với đảng cs vô thần Ba Lan. Ông bà chỉ có duy nhất đứa con gái tên Têrêxa, 11 tuổi. Cô bé trông thật xinh xắn mỹ miều. Nhưng bên trong cái nét duyên dáng ấy, lại ẩn chứa một ý chí sắt đá, cương quyết thực hiện cho bằng được điều mình muốn. Và điều cô bé ước muốn: cùng với các bạn gái đồng lứa tuổi chuẩn bị rước lễ lần đầu.

Sau nhiều ngày do dự, Têrêxa thu hết can đảm tỏ bày cùng cha mẹ. Vừa khi hiểu ý con gái, ông bà cảm thấy như đất rung trời sập! Sự nghiệp với đảng bỗng một sớm một chiều tan ra mây khói! Do đó, ông bà dứt khoát trả lời KHÔNG. Trăm lần KHÔNG. KHÔNG có chuyện xưng tội với rước lễ lần đầu! Bởi vì, nếu Têrêxa trở thành tín hữu Công Giáo, tức là ông bà phản bội chủ thuyết vô thần của đảng!

Lúc này đây Têrêxa biết phải làm gì. Cô bé nghĩ ra diệu kế: TUYỆT THỰC. Cô bé vào phòng riêng, lên giường, trùm kín chăn lại. Mặc cho mẹ dỗ ngon dỗ ngọt, Têrêxa vẫn không thay đổi, bao lâu cha mẹ không chấp nhận cho mình rước lễ lần đầu.

Cuộc tuyệt thực chuyển sang ngày thứ ba thì tình hình bỗng trở nên nghiêm trọng. Têrêxa yếu hẳn, giống như người sắp chết. Hai ông bà vô cùng lo lắng. Trong khi đó, Têrêxa đói vô cùng. Cô bé chống đói bằng những ly nước lã và không ngừng lần hạt Mân Côi. Cứ sau một tràng chuỗi, cô bé thêm phần kinh riêng của mình: “Thánh MARIA Đức Mẹ Chúa Trời .. xin cho Ba Má con nhượng bộ gấp, đầu hàng trước, nếu không, chắc chắn con sẽ chết vì đói. Thật ra, con đâu có muốn chết! Tuy nhiên, nếu cần, con sẵn sàng chết, chứ không đổi ý. Vậy xin Đức Mẹ cầu bầu cho con trong giờ lâm tử, nếu con bị bắt buộc phải chết. Nhưng con thích cầu xin Đức Mẹ thay đổi tâm lòng Ba Má con hơn. Con yêu Mẹ nhiều, Người Mẹ Thiên Quốc của con và con hết lòng tin tưởng nơi Mẹ!”

Cầu nguyện xong, Têrêxa trông thấy cánh cửa từ từ hé mở, rồi cả Má lẫn Ba bước vào. Ông Casimir âu yếm hỏi con: “Cưng của Ba, con cảm thấy như thế nào?” Bà Anna ranh mãnh hơn, đánh đúng tâm lý cô bé: “Con không đói sao? Cưng của mẹ?” Têrêxa bật khóc nức nở: “Con đói lắm chứ! Con có thể ăn hết một đĩa bột bắp, ngay lúc này đây, vì con quá đói! Con cũng có thể ăn khoai sống, dưa thối, hoặc bất cứ thức ăn nào người ta vứt đi, bởi vì con quá đói .. Nhưng con nói KHÔNG là KHÔNG. Con đói nhưng con không ăn gì cả. Và Ba Má sẽ chứng kiến cảnh con chết vì đói. Rồi Ba Má sẽ viết trên mộ con: 'Chết vì đói, vì lỗi của Ba Má'. Đúng thật là lỗi của Ba Má vì Ba Má cương quyết không chấp nhận cho con được rước Chúa GIÊSU Thánh Thể!”

Ông bà kinh ngạc nhìn nhau. Đây là lần đầu tiên cô bé thú nhận mình đói. Ông Casimir lợi dụng ngay tình thế. Ông nói: “Con à, Ba Má chỉ muốn điều tốt điều lành cho con. Sao con cứ nằng nặc đòi ăn cho bằng được một tấm Bánh Trắng nhỏ xíu? Nó có là gì đâu! Con ăn rồi cũng giống như chưa ăn. Chỉ có điều khác: nếu con ăn Miếng Bánh này, sự nghiệp Ba Má sẽ tiêu tan. Đảng sẽ loại trừ Ba Má. Vậy con không yêu Ba Má sao? Giờ đây Ba thấy rõ con không yêu Ba Má chút nào hết!”

Têrêxa im lặng nghe Ba nói. Bỗng cô bé ngồi bật dậy, nước mắt dàn dụa: “Ba Má nghĩ con không yêu Ba Má thật hay sao? Sở dĩ con tuyệt thực là vì con yêu Ba Má. Không phải lỗi con, nếu Ba Má không tin nơi Thiên Chúa. Phần con, con tin nơi Thiên Chúa và con tin cho tới chết. Và nếu con không được rước Chúa GIÊSU thật, con cũng có thể rước Chúa cách thiêng liêng bằng lòng ao ước. Và khi con chết rồi, trên Thiên Đàng, con sẽ cầu nguyện thật nhiều cho Ba Má!”

Không chịu thua, bà mẹ nghĩ ra chiến thuật khác. Bà nói với con: “Con tỏ ra thông thạo giáo lý Công Giáo. Con không biết đạo Công Giáo dạy phải vâng lời cha mẹ sao?” Suy nghĩ một chút Têrêxa lý luận: “Phải, con phải vâng lời cha mẹ, nhưng chỉ vâng lời trong điều thiện. Nếu cha mẹ truyền làm điếu xấu thì con cái có quyền không vâng lời. Đây là trường hợp của con. Điều Ba Má dạy con là xấu, vì Ba Má ngăn cản không cho con được rước Chúa GIÊSU. Vì thế, con có quyền thưa KHÔNG. KHÔNG và KHÔNG!

Nói đến đây, cô bé úp mặt khóc nức nở. Khóc vì hờn, vì đói và vì .. “chiến thuật” nữa. Cô bé biết rõ Ba Má rất cưng chìu mình, đặc biệt là Ba! Và Têrêxa đã thành công. Ông bà đành chấp nhận cho cô con gái dọn mình xưng tội và rước lễ lần đầu .. Têrêxa vui mừng không xiết kể. Cô bé dâng lời tạ ơn: “Cám ơn Đức Mẹ dấu ái của con. Chúa ơi, nếu Mẹ không giúp, hẳn là con không đủ sức chiến đấu đến cùng. Giờ đây, con xin Mẹ thay đổi lòng Ba Má con, để Ba Má cũng dọn mình rước Chúa GIÊSU với con. Mẹ làm được mọi sự, bởi vì Thiên Chúa không từ chối điều gì với Mẹ. Con hoàn toàn tin tưởng nơi sự cầu bầu của Mẹ. Amen”.

(MARIA Winowska “Les Voleurs de Dieu”, Editions Saint Paul, 1989, trang 129-137).


Bấm vào đây trở về “Tin YÊU Và Hy Vọng Của Kitô Giáo”

Gương CHỨNG NHÂN

1. THÁNH ANTÔN VÀ PHÉP LẠ THÁNH THỂ TẠI TOULOUSE

Thánh Antôn thành Padova (1195-1231) là tu sĩ hèn mọn dòng thánh Phanxicô thành Assisi (1182-1226), Tiến Sĩ Hội Thánh. Có thể nói ngài là một trong những vị thánh được kêu cầu nhiều nhất của Giáo Hội Công Giáo. Thánh Antôn gốc Bồ-đào-nha nhưng đã chọn Italia làm quê hương thứ hai và trở thành người Ý. Ngài có tên thật là Fernando. Tài hùng biện kèm theo tâm tình đạo đức sâu xa đã khiến các Bề Trên gởi Cha Antôn đi thuyết giảng nhiều nơi. Linh Mục Antôn có biệt tài bẽ gãy mọi lý lẽ của bọn lạc giáo - cách riêng nhóm Albigeois - lúc ấy đang tung hoành tại Toulouse và vùng Tây Nam nước Pháp. Mức độ thánh thiện của Linh Mục tu sĩ Antôn trổi vượt đến độ, chỉ vỏn vẹn một năm sau khi ngài qua đời, Đức Giáo Hoàng Gregorio 9 (1227-1241) đã nâng Cha Antôn lên bậc hiển thánh! Đó là năm 1232.

Ưu điểm cuộc đời thánh Antôn là lòng tôn sùng Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể. Chính tâm tình kính yêu này đã giúp thánh nhân đánh bại mọi tấn kích vô thần đối với Đức Tin Công Giáo. Một ngày, thánh Antôn có mặt tại Toulouse để bác bỏ các lầm lạc của nhóm Albigeois liên quan đến bí tích Thánh Thể. Cuộc tranh cãi diễn ra vô cùng sôi nổi. Thánh Antôn lý luận rành mạch và vững mạnh đến độ nhóm lạc giáo phải cứng miệng. Cứng miệng nhưng không dễ đầu hàng. Họ cố gắng cầm cự cho đến phút chót. Sau cùng, trưởng nhóm lạc giáo đề nghị:

- Dẹp một bên các lý luận. Bây giờ chúng ta đi vào thực tế. Nếu ông có thể đưa ra một bằng chứng, qua một phép lạ tỏ tường, trước sự chứng kiến của toàn dân rằng: Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ hiện diện thật sự trong Bánh Thánh, thì tôi sẵn sàng từ bỏ lạc giáo và trở về với Đức Tin Công Giáo.

Đầy tin tưởng nơi quyền năng vô biên của Đức Chúa GIÊSU KITÔ Thánh Thể, thánh Antôn trả lời ngay:
- Tôi chấp thuận đề nghị của anh.
Ông lạc giáo Albigeois nói tiếp:
- Ở nhà tôi có một con la cái. Tôi sẽ nhốt nó vào chuồng và bỏ nó nhịn đói 3 ngày. Ngày thứ ba, tôi sẽ dẫn nó đến đây, trước mặt mọi người, và dọn cho nó một thùng kiều mạch thơm ngon. Còn ông, ông hãy đưa cho nó ”cái” mà ông gọi là Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Nếu con vật bị đói mà không thèm ăn của ngon người ta dọn cho nó nhưng lại chạy đến cùng Đấng THIÊN CHÚA, mà theo lời ông, hết mọi thọ sinh phải bái gối thờ lạy, thì tôi sẽ trọn lòng tin nơi giáo huấn của Hội Thánh Công Giáo.

Đúng ngày hẹn, toàn thể dân thành Toulouse chen chúc có mặt tại quảng trường chính, nơi diễn ra cuộc thách thức. Tín hữu Công Giáo cũng như đồ đệ lạc giáo, mỗi người dấu ẩn một tâm tình riêng tư. Gần đó, trong một nhà nguyện, thánh Antôn dâng Thánh Lễ thật sốt sắng.

Bên ngoài, ông lạc giáo Albigeois kéo con la cái đến và truyền mang cho con vật thức ăn nó ưa thích. Nhóm lạc giáo có mặt đông đảo lộ vẽ hoan hỉ như cầm chắc thắng lợi. Thánh Antôn từ thánh đường bước ra, tay giơ cao Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Giữa bầu khí im lặng như tờ, thánh Antôn lớn tiếng ra lệnh cho con lừa:

- Nhân danh THIÊN CHÚA, Đấng tạo dựng nên ngươi, và mặc dầu bất xứng, ta đang giữ Ngài trong tay ta, ta truyền cho ngươi, hỡi con vật đáng thương, hãy mau lẹ đến quỳ gối thờ lạy Người. Phải làm cho các kẻ lạc giáo nhìn nhận rằng, mọi thọ sinh đều phục tùng Đấng THIÊN CHÚA Tạo Hóa mà vị Linh Mục Công Giáo được diễm phúc làm cho Ngài ngự xuống trên bàn thờ.

Cùng lúc ấy, người ta đưa thùng kiều mạch thơm ngon đến trước mặt con lừa. Lạ lùng thay, con lừa không đoái hoài đến thức ăn. Trái lại, nó nghe theo lệnh của thánh Antôn. Nó gập hai cẳng trước và quì xuống cung kính thờ lạy Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ.

Trước cảnh tượng này, các tín hữu Công Giáo vui mừng không tả xiết. Còn nhóm lạc giáo thì tỏ ra kinh hoàng rúng động. Trước phép lạ tỏ tường, ông trưởng nhóm lạc giáo Albigeois đã giữ đúng lời hẹn. Ông từ bỏ lạc giáo và khiêm tốn trở về với giáo huấn chân thật của Giáo Hội Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền.

2. ĐỒ ĐỆ LẠC GIÁO ZWINGLI HOÁN CẢI NHỜ PHÉP LẠ THÁNH THỂ

Đan viện hoàng gia San Lorenzo ở Escurial bên Tây-Ban-Nha, do vua Philipphê II (1527-1598) thành lập. Nơi đây có tôn kính Bánh Thánh Phép Lạ. Hơn 4 thế kỷ trôi qua nhưng Bánh Thánh vẫn giữ nguyên vẹn bản chất. Bánh Thánh Phép Lạ được đặt nơi bàn thờ bên trong Phòng Thánh. Bánh Thánh được che khuất bởi một bức tranh tuyệt đẹp. Bức tranh diễn tả vua Carlo II (1661-1700) cùng với toàn thể triều đình đang quì gối thờ lạy Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ.

Sử liệu đan viện San Lorenzo ghi lại sự tích Bánh Thánh Phép Lạ như sau.

Thế kỷ 16 là một trong những thế kỷ đau thương nhất của Giáo Hội Công Giáo. Tại Âu Châu nổi lên phong trào Cải Cách đưa đến sự ly khai làm phát sinh các hệ phái Tin Lành. Nổi bậc nhất là 3 ông tổ lạc giáo: Jean Calvin (1509-1564) người Pháp, Martin Luther (1483-1546), người Đức và Ulrich Zwingli, người Thụy Sỹ.

Hòa Lan lâm cảnh nội chiến đẫm máu, dưới chiêu bài tôn giáo. Đâu đâu cũng gặp cảnh tang thương chết chóc. Các thánh đường và các tu viện bị xúc phạm, đốt cháy. Lợi dụng “nước đục thả câu” nhóm lạc giáo Zwingli cũng xuất đầu lộ diện đánh phá khắp nơi.

Một ngày trong năm 1592, đồ đệ Zwingli hùng hổ xông vào thành Gorkum. Họ đập ảnh tượng thánh và theo thói dữ vẫn làm, họ đi đến chỗ phạm thánh. Họ ùa vào nhà thờ chánh tòa ăn cướp những gì có giá trị. Sau cùng họ cướp Bình đựng Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ và trút bỏ các Bánh Thánh xuống đất. Chưa hết, như bị quyền lực Satan điều khiển, họ còn dám giơ chân đạp lên Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Trước hành động xúc phạm, Đức Chúa GIÊSU KITÔ không trừng phạt nhãn tiền các thủ phạm. Ngài chỉ để lại một dấu tích như bằng chứng đau thương của lòng Nhân Hậu. Một Bánh Thánh bị chà đạp bỗng tuôn ra máu tươi của người sống.

Chứng kiến hiện tượng lạ lùng, một trong các đồ đệ lạc giáo nhận được ơn hoán cải. Tạm gọi tên ông là Gioakim. Ông Gioakim vừa có tâm tình kính tôn trước Phép Lạ Thánh Thể vừa kinh hoàng về hành động phạm thượng của mình. Hai tâm tình hỗn độn đó khiến ông bị đứng im như trời tròng. Ông muốn chạy lại cầm lấy Bánh Thánh Phép Lạ nhưng một sức mạnh vô hình ngăn cản không cho ông nhúc nhích. Sau một lúc phấn đấu, ông chạy như điên ra khỏi nhà thờ. Ông chạy một mạch đến thẳng nhà Vị Tổng Đại Diện lúc bấy giờ là Đức Ông Jean Vander Delpht. Ông xúc động kể lại cho Cha Bề Trên giáo phận nghe biến cố phạm thánh vừa diễn ra nơi nhà thờ chánh tòa.

Đức Ông cùng ông Gioakim đến ngay nhà thờ. Với tâm tình tràn đầy kính tôn trước Bánh Thánh Phép Lạ, Đức Ông mang Bánh Thánh chạy trốn khỏi nhóm lạc giáo Zwingli. Cả hai rời Gorkum tiến về thành phố Malines và đến thẳng tu viện các tu sĩ dòng Thánh Phanxicô. Đức Ông giao cho các tu sĩ nhiệm vụ cất giữ Bánh Thánh Phép Lạ đồng thời làm việc đền tạ vì Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể bị xúc phạm.

Về phần ông Gioakim, ông hoàn toàn ăn năn về tội lỗi tầy trời của mình. Ông không muốn rời xa Bánh Thánh Phép Lạ. Ông xin các tu sĩ cho phép ở lại tu viện. Sau thời gian chay tịnh, khóc lóc đền bù tội phạm thánh, ông xin gia nhập tu viện. Từ đó ông tiếp tục cuộc sống tu trì trong tâm tình thống hối và yêu mến tràn bờ đối với Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể.

Bánh Thánh Phép lạ được tôn kính nơi tu viện các tu sĩ Phanxicô ở Malines một thời gian. Sau đó vì cẩn trọng, Bánh Thánh được đưa sang Vienne, thủ đô nước Áo, rồi lại chuyển đến Praha, thủ đô nước Tiệp. Sau cùng, Bánh Thánh Phép Lạ được đưa sang Tây-Ban-Nha, đặt nơi Đan viện hoàng gia San Lorenzo ở Escurial.

3. CHIẾN THẮNG NHỜ ĐỨC CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ

Năm 1239, một cuộc chiến kinh hoàng càn quét đất nước Tây-Ban-Nha. Trước tiên, quân Ả-Rập hồi giáo tiến chiếm thành Valencia. Valencia nằm về mạn Đông Nam Tây-Ban-Nha. Một ngày, nhóm hồi giáo bất ngờ đem quân đông đảo nhằm đánh phá tan tành quân lực Công Giáo chỉ gồm khoảng 1 ngàn binh sĩ. Thấy cơ nguy, binh sĩ Công Giáo chạy vào trấn thủ nơi một lâu đài. Với con số quá ít ỏi so với địch quân, lại thêm địa thế cách xa Valencia, binh sĩ Công Giáo gần như cầm chắc thất bại trong tay.

Không còn hy vọng nơi bất cứ quyền lực thế trần, binh sĩ Công Giáo đặt trọn niềm tin nơi sự trợ giúp của Trời Cao. Họ cũng muốn chuẩn bị tinh thần trước khi khởi sự cuộc chiến bằng cách lãnh nhận hai bí tích Giải Tội và Thánh Thể. Thế nhưng, hiểm nguy đến gần, thời giờ khẩn cấp mà chỉ có một Linh Mục. Tất cả các binh sĩ không thể cùng lãnh nhận 2 bí tích. Họ nhanh chóng đề cử 6 vị tướng tham dự Thánh Lễ thay cho toàn số binh sĩ. Trong lúc đó, các binh sĩ Công Giáo túc trực sẵn sàng đẩy lui mọi tấn kích của quân thù.

6 vị tướng dọn mình xưng tội. Rồi họ đứng quanh bàn thánh sốt sắng tham dự Thánh Lễ. Thánh Lễ đến hồi truyền phép và sau đó mọi người chuẩn bị rước lễ. Vào chính lúc ấy, còi báo động vang lên báo hiệu quân hồi giáo đang tiến vào. Nhanh như chớp, 6 vị tướng vơ vội vũ khí và chạy như bay nhập hàng với các binh sĩ. Không muốn phơi bày Mình Thánh Chúa cho quân hồi giáo xúc phạm, vị Linh Mục cẩn trọng đặt tất cả Bánh Thánh vào Khăn Thánh, gói kín lại và dấu dưới một viên đá.

Đức Chúa GIÊSU KITÔ như cảm động trước tâm tình tín thác vô bờ của các tướng lãnh cùng binh sĩ Công Giáo thành Valencia đối với bí tích Thánh Thể. Ngài không để họ phải thất vọng. Ngài ra tay uy quyền cứu giúp. Đức Chúa GIÊSU đã xuất hiện cách oai hùng, dẫn đầu đoàn binh Công Giáo ít ỏi, chống trả quân hồi giáo vô cùng đông đảo. Thế là nhóm Ả rập thất kinh hồn vía, ù té bỏ chạy như điên.

Quân lực Công Giáo Tây Ban Nha chiến thắng vẻ vang mà không mảy may tổn thất. Đầy lòng tri ân trước chiến thắng bất ngờ, các tướng lãnh Công Giáo quyết định thi hành chương trình thiêng liêng đã vạch ra trước khi bị tấn công. Đó là lãnh nhận Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Vị Linh Mục hân hoan chạy đến chỗ dấu ẩn, lấy Mình Thánh Chúa và đưa về bàn thờ. Nhưng lạ lùng thay, khi vị Linh Mục mở Khăn Thánh ra thì thấy các Bánh Thánh lấm tấm các giọt máu và Máu dính vào Khăn Thánh.

Thay vì tỏ ra kinh hãi, các binh sĩ Công Giáo Tây Ban Nha nghĩ rằng, chính Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ đã giúp cho cuộc giao tranh đi đến chỗ chiến thắng ngoài mức chờ mong.

Trong khi đó, quân Ả Rập hồi giáo sau khi chạy tán loạn, liền qui tụ lại. Họ hổ thẹn vì đã thất trận ê chề. Lần này họ cương quyết đánh giết tan tành nhóm binh lính Công Giáo. Về phía binh sĩ Công Giáo, được củng cố nhờ sự trợ giúp thần linh của Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể, không hề tỏ ra nao núng sợ hãi. Họ xin vị Linh Mục cầm Khăn Thánh có in Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ rồi đứng trên một nơi thật cao, làm thế nào để tất cả các binh lính Công Giáo đều có thể trông thấy. Như được kích động bởi Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ, các binh sĩ Công Giáo hăng say chiến đấu. Họ xông tới giết chết cách dễ dàng toàn bộ nhóm quân hồi giáo.

Cuộc chiến thắng vinh quang thứ hai chấm dứt cuộc giao tranh đẫm máu của quân Ả Rập hồi giáo muốn đánh phá và chiếm đoạt thành Valencia của các tín hữu Công Giáo.

(Père Eugène Couet, ”Les Miracles Historiques du Saint Sacrement”, Éditions D.F.T, Réédition 1998).



PHÉP LẠ THÁNH THỂ (II)


Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt

1. HÌNH ĐỨC CHÚA GIÊSU HÀI ĐỒNG VÀ MÁU THÁNH TUÔN RA TỪ MÌNH THÁNH CHÚA

Ngày 13-7-1857, Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Pio IX (1846-1878) đến hành hương Ferrare (Trung Bắc Ý). Chiều hôm ấy, cùng với đoàn tùy tùng gồm các Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục, Đức Pio IX trang nghiêm tiến vào đền thờ Santa Maria del Vado nơi có thánh tích Phép Lạ Thánh Thể xảy ra trước đó gần 7 thế kỷ. Thánh đường nhân dịp này được thắp sáng trông thật uy linh lộng lẫy. Đức Pio IX đến quì trước Nhà Tạm, thờ lạy Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể. Xong, ngài bước sang bàn thờ bên cạnh, nơi có thánh tích Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU ghi trên các tấm đá. Đức Pio IX lặng lẽ quì gối thờ lạy Máu Châu Báu Cực Thánh của Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Sau khi thờ kính, Đức Thánh Cha tiến lại gần quan sát kỹ lưỡng các Vết Máu. Ngài quay sang nói với mọi người hiện diện:

- Các Giọt Máu này giống y các Giọt Máu Phép Lạ ghi trên Khăn Thánh thành Orvieto vào năm 1263.

(Câu nói chứng tỏ sự thật hiển nhiên của Phép Lạ Thánh Thể tại cả hai nơi: Ferrare và Orvieto, đều thuộc nước Ý)

Năm 1871, nhân kỷ niệm 700 năm xảy ra Phép Lạ Thánh Thể Ferrare (1171-1871), Đức Thánh Cha Pio IX ban cho thành một ân huệ đặc biệt. Đó là hàng năm vào Chúa Nhật thứ 5 sau Phục Sinh, toàn thể giáo phận Ferrare được cử hành các nghi lễ trọng thể để kính nhớ Phép Lạ Thánh Thể.

Sau đây là diễn tiến Phép Lạ được ghi trong sử liệu Giáo Hội Công Giáo.

Chúa Nhật Phục Sinh 26-3-1171, nơi nhà thờ Santa Maria del Vado, cử hành Thánh Lễ trọng thể mừng Đức Chúa GIÊSU Phục Sinh. Chủ tế Thánh Lễ là Cha Pietro di Verona, một Linh Mục nổi tiếng thánh thiện. Hiện diện trong Thánh Lễ còn có một số Linh Mục khác và đông đảo giáo dân thành Ferrare tham dự.

Sau lời truyền phép khi vị chủ tế giơ cao Mình Thánh Chúa cho giáo dân thờ lạy, bỗng toàn thể cộng đoàn trông thấy rõ ràng hình ảnh Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng xuất hiện trong Bánh Thánh. Thân Thể Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng nằm trọn trong Bánh Thánh. Vào thời kỳ đó, tại nước Ý, Bánh Thánh lớn thường có chiều kích gấp 4,5 lần Bánh Thánh lớn hiện nay. Do đó, toàn thể cộng đoàn có thể chiêm ngắm rõ ràng hình ảnh Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng xuất hiện trong Bánh Thánh.

Thánh Lễ được tiếp tục trong sự xúc động sâu xa của toàn thể cộng đoàn. Thế nhưng, sự lạ êm ái nhẹ nhàng đầu tiên lại tiếp nối một sự lạ thứ hai, oai hùng và đáng run sợ hơn. Đó là, khi vị chủ tế cầm lấy Bánh Thánh và bẻ ra làm đôi, bỗng Máu Thánh Chúa dồi dào tuôn ra từ Bánh Thánh. Máu Thánh chảy ra lênh láng. Chưa hết, Máu Thánh còn phun vọt lên khiến trần đền thờ lấm tấm các giọt Máu Thánh. Mọi tín hữu có mặt đều khiếp kinh hồn vía.. Sau đó, người ta nghĩ rằng, Phép lạ Máu Thánh tuôn ra từ Bánh Thánh như câu trả lời cho những người Do Thái lúc ấy đang có mặt tại thành Ferrare. Những người Do Thái này thường rêu rao từ chối không tin Đức Chúa GIÊSU hiện diện thật sự trong Bánh Thánh. Không tin đã đành, họ còn dám chế nhạo và xúc phạm đến Đức Tin của các tín hữu Công Giáo.

Phép Lạ Thánh Thể quá hiển nhiên. Tin đồn loan nhanh trong thành phố và các vùng phụ cận. Mọi người tức tốc chạy đến chứng kiến tận mắt Phép Lạ Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU tuôn ra từ Bánh Thánh. Chính Đức Cha Amato, giám mục Ferrare cũng đích thân đến ngay nhà thờ Santa Maria del Vado. Chứng kiến hiện tượng diệu kỳ, đức giám mục long trọng tuyên bố trước toàn thể các tín hữu:

- THIÊN CHÚA đã thực hiện một công trình cao cả và trọng đại.

Về phần Đức Cha Gerardo, Tổng Giám Mục giáo phận Ravenna, khi nghe tin đồn Phép Lạ Thánh Thể cũng mau mắn đến ngay Ferrare. Trước Máu Thánh phép lạ, Đức Cha quỳ gối thờ kính thật lâu. Sau đó, Đức Cha ban ân xá cho tín hữu nào đến kính viếng Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU với trọn lòng tin yêu. Đức Tổng Giám Mục cũng không ngần ngại tuyên bố:

- Quả thật, chính THIÊN CHÚA đã làm một điều kỳ diệu.

2. CA ĐOÀN THIÊN THẦN THÁP TÙNG CUỘC RƯỚC KIỆU MÌNH THÁNH CHÚA.

Ngày 11-8-1264, Đức Giáo Hoàng Urbano 4 (1261-1264) ban tự sắc thiết lập lễ trọng thờ kính Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ trong toàn thể Giáo Hội Công Giáo. Cùng lúc, Đức Urbano 4 cũng giao cho thánh Tommaso d'Aquino (1225-1274) nhiệm vụ soạn các bản văn Phụng Vụ cho lễ trọng đại này. Tiếc thay, Đức Urbano 4 từ trần hơn một tháng rưỡi sau đó vào ngày 2-10-1264, vì thế lễ Mình Thánh Chúa bị bỏ lửng.

Mãi đến hơn 50 năm sau, nơi Công Đồng Vienne, Đức Clemente 5 mới truyền áp dụng tự sắc của Đức Urbano 4 về việc long trọng mừng lễ Mình Thánh Chúa trong toàn thể Giáo Hội Công Giáo. Hai năm sau, 1318, Đức Gioan 22 (1316-1334) lại thêm vào lễ Mình Thánh Chúa cuộc rước kiệu trọng thể. Mình Thánh Chúa được đặt trong Mặt Nhật và được long trọng rước qua các nẻo đường làng hoặc thành phố, với hoa nến trang hoàng thật lộng lẫy.

Vào thế kỷ 16, nơi thành Luchent ở miền Bắc nước Tây Ban Nha, tín hữu Công Giáo có thói quen mừng trọng thể lễ Mình Thánh Chúa cùng với cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa. Giáo dân tổ chức vô cùng chu đáo. Mình Thánh Chúa được long trọng rước qua các đoạn đường thật dài. Ngày 1-7-1564 để gia tăng phần long trọng cho cuộc kiệu, người ta xin đội trống kèn âm nhạc của thành phố Xativa đến tháp tùng Mình Thánh Chúa.

Mãi đến giờ Cuộc rước phải bắt đầu, vẫn không thấy đoàn âm nhạc trống kèn đâu cả. Mọi người kiên nhẫn chờ đợi trong vòng một tiếng đồng hồ. Sau cùng, Cha Sở ra hiệu cuộc rước khởi hành.

Khi đoàn rước đi qua cửa thành, mọi người bỗng nghe rõ một điệu nhạc trổi lên thật du dương. Tiếng trống tiếng nhạc tiếng kèn gieo vào lòng mỗi người một niềm vui khó tả. Ai nấy hài lòng vì cho rằng đội kèn thành phố Xativa đã thật sự đến nơi. Nào ngờ sau một lúc lâu, vẫn không trông thấy bóng dáng nhạc sĩ nào cả. Trong khi đó, tiếng nhạc tiếng kèn tiếng trống vẫn tiếp tục trổi lên những bản nhạc tuyệt vời.

Toàn thể các tín hữu Công Giáo trong đoàn rước kiệu Mình Thánh Chúa nhìn nhau lộ vẻ vừa ngỡ ngàng vừa hân hoan. Một số bạn trẻ tự động rời hàng ngũ để kiểm xem ai dám ngăn chặn không cho ban nhạc thành phố Xativa nhập đoàn rước. Nhưng các bạn trẻ không trông thấy một ai. Thêm vào đó, khi ở ngoài hàng ngũ, các bạn trẻ không còn nghe được tiếng âm nhạc du dương nữa. Trái lại vừa khi đứng nghiêm trang vào hàng ngũ, tức khắc tai các bạn trẻ lại nghe được âm nhạc tuyệt vời như trước.

Chính lúc này mọi người đồng ý với nhau rằng, THIÊN CHÚA đã gởi Các Thiên Thần của Ngài - ca đoàn thiên quốc - đến thay thế cho ban nhạc thành phố thất trung, không muốn dùng tiếng kèn điệu nhạc tiếng trống vang lên lời chúc tụng ngợi khen Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ.

Tiếng nhạc thiên quốc tháp tùng đoàn tín hữu Công Giáo rước kiệu Mình Thánh Chúa dọc theo suốt các quãng đường dài, trong trang nghiêm và sốt sắng. Ngoài ra, không phải chỉ riêng các tín hữu tham dự cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa được diễm phúc nghe âm nhạc tuyệt vời đến từ Trời Cao, nhưng cả một bô lão nữa. Vị cao niên này bị bệnh phải nằm liệt giường, không thể tham gia cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa. Nhưng lạ lùng thay, cả cụ già này cũng được diễm phúc nghe rõ tiếng nhạc du dương réo rắc của ca đoàn các Thiên Thần đến từ Trời Cao. Thật là tuyệt diệu.

3. BÁNH THÁNH VÀ CHÉN THÁNH TỎ HIỆN CHO 2 NGƯỜI DO THÁI

Thánh Tomas de Villanueva là tu sĩ dòng Thánh Agostino. Ngài sinh năm 1486 và qua đời năm 1555 tại Valencia bên nước Tây-ban-nha. Thánh nhân xuất thân từ một gia đình thượng lưu.

Ngày còn là tu sĩ trẻ, Cha Tomas de Villanueva kết thân với một thanh niên từ Do thái giáo trở lại Kitô Giáo. Tạm gọi tên chàng là Antonio. Từ ngày lãnh nhận bí tích Rửa Tội và gia nhập Giáo Hội Công Giáo, Antonio nhiệt tâm sống đạo. Chàng sống đạo thật nghiêm chỉnh và chân thành.

Một ngày chàng lâm trọng bệnh. Biết mình không thoát lưỡi hái tử thần, Antonio mời Cha Tomas de Villanueva đến và kể cho Cha nghe câu chuyện đời mình như sau.

Thưa Cha là người Cha, là vị an ủi, là ông thầy thuốc và là đấng chỉ đạo dìu dắt linh hồn con. Xin Cha thứ lỗi cho con vì đã làm phiền Cha khi mời Cha ghé đến nhà thăm con. Thật ra con muốn tỏ lộ cùng Cha một bí mật trọng đại. Con không muốn vĩnh viễn ra đi trước khi ủy thác cho Cha điều bí mật con vẫn giữ kín trong lòng.

Một ngày, thân phụ con sai con đi giải quyết một vấn đề nghiêm trọng. Con ra đi cùng với một thanh niên Do Thái đồng tuổi với con. Trên đường, chúng con bắt đầu thảo luận về Đấng MESSIA mà người Do Thái chúng con vẫn còn mù quáng mong mỏi chờ đợi ngày Ngài xuất hiện. Chúng con thảo luận nồng nhiệt đến độ nẩy sinh niềm ước muốn được trông thấy Đấng MESSIA. Lòng đầy trào ra miệng. Chúng con cất tiếng tha thiết nguyện xin:

- A, phải chi giờ đây Ngài xuất hiện ngay nơi thời đại chúng con, hẳn chúng con sẽ sung sướng biết là chừng nào. Thật hạnh phúc biết bao nếu chúng con được may mắn trông thấy Ngài tận mắt!

Cuộc trao đổi tư tưởng cứ thế tiếp tục và càng nói, lòng chúng con càng bừng lên niềm ao ước chân thật: trông thấy Đấng MESSIA! Chúng con mải mê nói cho đến lúc chúng con trông thấy một luồng sáng tuyệt đẹp xuất hiện trên bầu trời. Trời đã chạng vạng tối. Ánh sáng chói chang khiến chúng con có cảm tưởng như bầu trời mở ra. Ngay lúc ấy, con nhớ lại lời thân phụ con thường nói với chúng con:

- Thỉnh thoảng trời mở ra và chúng ta có thể xin Chúa vài ơn với niềm hy vọng chan chứa là thế nào Chúa cũng nhận lời chúng ta cầu xin.

Tức khắc, chúng con quì sụp xuống. Và với trọn tâm tình tha thiết, chúng con khẩn nài THIÊN CHÚA tỏ lộ Đấng MESSIA cho chúng con. Chúng con xin Chúa cho chúng con được chiêm ngưỡng thánh nhan Đấng chúng con hằng mong mỏi trông chờ từ mấy ngàn năm qua.

Giữa những tiếng khẩn nài và trước ánh sáng chói chang mà hai cặp mắt chúng con dán chặt không rời, bỗng chúng con trông thấy xuất hiện gần nơi chỗ chúng con đang quì, một Chén Thánh lóng lánh với Bánh Thánh lơ lửng bên trên. Bánh Thánh có chiều kích giống y như Bánh Thánh vị Linh Mục Công Giáo giơ cao cho giáo dân thờ lạy sau khi truyền phép. Không bút nào tả hết nỗi kinh hoàng của chúng con vào chính lúc ấy. Nhưng chỉ trong thoáng giây thôi. Bởi vì ngay sau đó, chúng con cảm nghiệm niềm an bình và an ủi khôn tả. Chúng con được giải thoát khỏi mọi nỗi sợ hãi và cùng lúc, đôi mắt linh hồn chúng con được mở rộng. Nhờ ánh sáng từ trời soi chiếu, chúng con hiểu ngay rằng, Đấng MESSIA chúng con hằng mong đợi, đang ngự thật trong Bánh Thánh. Thời gian chờ đợi đã chấm dứt lâu lắm rồi. Và tôn giáo đích thật chính là Kitô Giáo.

Khỏi cần nói nhiều Cha cũng hiểu lòng chúng con tràn ngập niềm hân hoan và tri ân THIÊN CHÚA như thế nào. THIÊN CHÚA đã đích thân chữa lành bệnh mù quáng tinh thần của chúng con bằng một phép lạ quá diệu kỳ.

Khi trở về nhà, con nghĩ nên giữ kín chuyện con đã được Chúa ban cho ơn hoán cải tâm hồn. Sau đó, vào một dịp thuận lợi, con vội vàng xin lãnh nhận bí tích Rửa Tội và gia nhập Giáo Hội Công Giáo, duy nhất, thánh thiện và tông truyền. Từ đó, giống như Cha đã biết, con luôn luôn sống đời Kitô hữu chân chính. Con luôn trung tín với các giáo huấn Tin Mừng của Chúa chúng ta là Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Đấng Cứu Độ thế giới cùng toàn thể nhân loại.

(Père Eugène Couet, ”Les Miracles Historiques du Saint Sacrement”, Éditions D.F.T, Réédition 1998).



PHÉP LẠ THÁNH THỂ (III)


Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt

1. ĐỨC CHÚA GIÊSU HÀI ĐỒNG XUẤT HIỆN TRONG BÁNH THÁNH

Vua thánh Louis IX (1214-1270) của nước Pháp sinh tại Poissy và qua đời tại Carthage bên Tunisie. Nhà vua trị vì nước Pháp 44 năm với 10 năm đầu (1226-1236) dưới quyền nhiếp chính của Hoàng thái hậu Blanche de Castille.

Vua thánh Louis 9 là người liêm chính, là vị vua hiền đức trong thời bình và là bậc dũng chí trong thời chiến. Ngài nêu gương cho các bậc làm chồng làm cha cũng như cho các vua chúa quan quyền. Ngoài ra vua thánh Louis 9 còn là lý tưởng sống thánh giữa đời cho hàng giáo dân. Với tính tình luôn vui vẻ hồn nhiên, vua Louis 9 đã biết kín múc từ Đức Tin Công Giáo những tâm tình trong sáng giúp nhà vua cư xử nhã nhặn và yêu thương hết mọi người, không phân biệt giai cấp, tuổi tác và giàu nghèo.

Năm 20 tuổi (1234), Vua Louis 9 kết hôn với Marguerite de Provence. Từ đôi uyên ương hạnh phúc đã ra chào đời 11 người con. Sử liệu Pháp mô tả vua Louis 9 có dáng người dong dỏng cao đẹp, với bộ tóc dài màu hung hung, đôi mắt bồ câu và điệu bộ trông giống một thiên thần. Người ta có thể nói vua Louis 9 đã được quyền bính thánh hóa, vì chưng nhà vua đã thực thi quyền bính đến mức trọn hảo. Nét nổi bật trong cuộc đời vua thánh Louis 9 ở chỗ nhà vua dám đảo ngược trật tự xã hội. Đối với nhà vua, bậc người giữ vai chính và quan trọng nhất là những kẻ bé nhỏ và nghèo hèn. Tiếp đến mới tới hạng người chức trọng quyền cao.

Chính vì quan niệm trật tự xã hội như thế nên vua Louis 9 chú trọng rất nhiều đến các hoạt động bác ái. Nhà vua cho xây cất Viện Filles-Dieu / Nữ tử THIÊN CHÚA với mục đích chăm sóc các thiếu nữ hồi tâm phục thiện, sẵn sàng từ bỏ con đường mại dâm. Nhà vua cũng xây cất nhà thương dành riêng cho các bệnh nhân mù lòa. Ngoài ra vua Louis 9 còn cho thành lập không biết bao nhiêu Viện Mồ Côi, Viện Dưỡng Lão và các Trung Tâm Bác Ái.

Năm 1238 vua Louis 9 chính thức đăng quang và lãnh vương miện. Để ghi nhớ biến cố trọng đại này, nhà vua cho xây một dinh thự huy hoàng tráng lệ mang biệt danh Sainte-Chappelle / Thánh-Nguyện-Đường, vẫn còn cho đến ngày nay với mọi nét cao sang lộng lẫy của triều đình vua chúa.

Một ngày, nơi Thánh-Nguyện-Đường có buổi cử hành Thánh Lễ như thường lệ. Vào chính lúc vị Linh Mục giơ cao Bánh Thánh cho tín hữu thờ lạy sau khi truyền phép, bỗng Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể lấy hình Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng hiện ra trong Hình Bánh. Hình bán thân Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng có dung nhan uy nghi tuyệt đẹp. Mọi người hiện diện ngây ngất chiêm ngưỡng Thánh Nhan. Tâm lòng mọi người tràn ngập niềm tri ân cảm tạ THIÊN CHÚA đã thương ban một ân huệ cao trọng dường ấy. Giữa lúc được hưởng đặc ân này, bỗng có người nghĩ đến Vua Louis IX. Họ xin Vị Linh Mục cứ giơ cao Bánh Thánh cho mọi người thờ lạy, đồng thời chạy nhanh báo tin cho Nhà Vua biết và mời Nhà Vua đến chứng kiến tận mắt Phép Lạ tỏ tường.

Nhưng người đưa tin ngạc nhiên biết bao khi nghe Nhà Vua trả lời:

- Ai không tin vào sự hiện diện đích thực của Đức Chúa GIÊSU trong Phép Thánh Thể thì hãy đến Nhà Nguyện mà xem. Phần trẫm, trẫm hằng suy gẫm trong lòng về hồng ân trọng đại Chúa ban cho chúng ta trong bí tích Thánh Thể. Ôi Tình Yêu THIÊN CHÚA thật cao cả biết bao. Được chiêm ngưỡng Phép Lạ tỏ tường không mảy may củng cố Đức Tin kiên vững của trẫm. Được trông thấy tận mắt đâu có ích gì thêm cho Đức Tin trẫm đâu! Đối với trẫm, thật êm ái dịu ngọt biết bao khi được tin nơi Chúa Cứu Thế bằng lời Ngài nói hơn là qua Phép Lạ Ngài làm! Thêm vào đó, trẫm hằng tin tưởng vững chắc nơi sự hiện diện của Đức Chúa GIÊSU trong bí tích Thánh Thể qua lời giảng dạy của Giáo Hội Công Giáo. Với Đức Tin không cần kiểm chứng nơi đời này, chắc chắn trẫm sẽ lãnh nhận một phần thưởng lớn lao nơi đời sau trên Thiên Quốc.

2. ĐỨC CHÚA GIÊSU TỎ HIỆN DƯỚI HÌNH HÀI NHI

Câu chuyện sau đây xảy ra tại thành phố Soissons, thuộc quận Aisne, miền Đông Bắc nước Pháp. Câu chuyện do chính Linh Mục Guibert, Cha Sở giáo xứ Nogent kể lại.

Chúa Nhật Phục Sinh năm 1115, một bà mẹ trẻ Công Giáo khi đi tham dự Thánh Lễ, đem theo cậu bé trai khoảng 5,6 tuổi. Cậu bé còn quá nhỏ để có thể hiểu và theo dõi các nghi thức Phụng Vụ. Thế nhưng, không hiểu tại sao cậu bé cứ tò mò nhìm chăm chú lên bàn thờ, nơi vị Linh Mục đang dâng Thánh Lễ. Sau Truyền Phép, vị Linh Mục giơ cao Bánh Thánh cho mọi người thờ lạy. Bầu khí vừa im lặng vừa trang nghiêm. Vậy mà, cậu bé không hề tỏ ra nhút nhát trước sự hiện diện của đông đảo vô số người. Cậu bé cầm tay mẹ lay mạnh và nói lớn:

- Mẹ ơi, Mẹ xem kìa, Hài Nhi trong tay Cha Sở đang giơ cao đẹp quá!

- Vừa nói, cậu bé vừa tỏ ra vui sướng vì quang cảnh cậu bé được chiêm ngắm. Bà mẹ không trông thấy gì nên ra lệnh cho cậu bé phải giữ thinh lặng. Nhưng cậu bé cứ tiếp tục la lớn tiếng và tỏ lộ nét hân hoan. Khi vị Linh Mục đặt Mình Thánh Chúa xuống và lấy Khăn Thánh phủ lên, thì cậu bé lại nói lớn:

- Mẹ thấy không, Cha Sở che khuất Hài Nhi với chiếc khăn trắng!

Câu nói và nét mặt hớn hở của cậu bé gây xúc động mạnh nơi các giáo dân tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật Phục Sinh năm đó. Mọi người thầm hiểu, để được chiêm ngắm kỳ công THIÊN CHÚA, cần phải có tâm lòng ngây thơ trong trắng của trẻ thơ .. Trong khi người lớn, - đặc biệt những người quá nặng lòng dính bén với của cải vật chất đời này, tách rời lý trí khỏi Đức Tin Công Giáo - thì khó lòng nhận ra ánh sáng được Thiên Chúa mặc khải.

... Vào năm 1180 Đức Chúa GIÊSU Hài Nhi cũng tỏ lộ qua Bánh Thánh khi vị Linh Mục giơ cao cho giáo dân thờ lạy sau khi Truyền Phép. Điều khác biệt là lần này, Đức Chúa GIÊSU Hài Nhi lại tỏ hiện với một Vị Vua. Vị Vua mặc dầu sống trên nhung lụa và thực thi uy quyền, vẫn giữ nguyên tâm lòng ngây thơ trong trắng. Đó là Vua Philippe-Auguste (1165-1223) trị vì nước Pháp 43 năm (1180-1223).

Lên ngôi nối nghiệp vua cha là Louis VII (1120-1180) năm mới bước vào tuổi 16, Vua Philippe-Auguste đã biết dung hòa giữa một cuộc sống tráng lệ nơi hoàng cung với cuộc đời một tín hữu Công Giáo chân chính.

Một thời gian ngắn sau khi đăng quang, Vua Philippe-Auguste tham dự Thánh Lễ tại lâu đài Saint-Léger. THIÊN CHÚA uy quyền muốn thưởng công vị vua trẻ tuổi nhân ái, nên đã tỏ lộ cùng vua dưới hình Hài Nhi. Khi vị Linh Mục giơ cao Mình Thánh Chúa cho mọi người thờ lạy sau khi đọc Lời Truyền Phép, Vua Philippe-Auguste trông thấy rõ ràng hình ảnh Đức Chúa Hài Nhi GIÊSU sáng ngời tuyệt đẹp, xuất hiện giữa đôi tay vị Linh Mục. Chung quanh Hài Nhi GIÊSU có đông đảo các Thánh Thiên Thần sẵn sàng thờ lạy và phục dịch Đấng là Vua các vua.

Trước quang cảnh tuyệt dịu này, Vua Philippe-Auguste vội sấp mình thờ lạy Hài Nhi GIÊSU Thánh Thể. Nhà Vua chỉ biết khiêm tốn hết lòng cảm tạ THIÊN CHÚA đã thương ban cho mình một ân huệ trọng đại dường ấy.

3. PHÉP LẠ THÁNH THỂ TẠI THÀNH PHỐ CẢNG DADE, CHYPRE

Câu chuyện xảy ra vào thế kỷ thứ VI tại thành phố cảng Dade, đảo Chypre.

Trong thành phố có cặp vợ chồng tên Isidore sinh sống. Hai vợ chồng cùng theo lạc giáo do Sévère khởi xướng chống lại Bí Tích Thánh Thể. Nhóm lạc giáo Sévériens cấm ăn thịt và uống rượu để có lý do chỉ dùng nước lã thay vì rượu trong Thánh Lễ.

Một ngày, khi trở về nhà, ông Isidore nghe tin vợ đã trở về với Giáo Hội Công Giáo và đang tham dự Thánh Lễ. Tức giận ông ta hớt hơ hớt hải chạy đến nhà thờ, vừa đúng lúc vợ đang rước Mình Thánh Chúa. Ông túm lấy cổ vợ bóp chặt và buộc vợ phải nhả ra Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Bà vợ kinh hoàng nhả ra Bánh Thánh còn ngậm trong miệng.

Isidore cầm lấy Mình Thánh Chúa đem ra khỏi nhà thờ, vừa ném tung lên vừa buông lời xúc phạm. Sau cùng Mình Thánh Chúa rơi xuống vũng bùn. Kẻ phạm thượng chưa hả cơn giận, vội vàng chạy đến định lấy chân đạp lên Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU. Nhưng cũng chính lúc đó, ông kinh hoàng dừng lại và đứng im như bị trời tròng. Isidore trông thấy ánh sáng chói chang tỏa ra từ Bánh Thánh đã truyền phép và đang treo lơ lửng trên không. Isidore thất kinh hồn vía ôm đầu bỏ chạy một mạch về nhà.

Nhưng Isidore không hề nghĩ đến chuyện ăn năn cũng như đền bù về tội trọng đã xúc phạm đến Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Hai ngày sau, bỗng ông trông thấy xuất hiện trước mặt một hình thù đen đủi xấu xa. Ông ta nhe răng nhìn Isidore với dáng điệu chế nhạo ngăm đe. Người này nói: “Isidore à, ông và tôi, cả hai chúng ta cùng bị kết án muôn đời chịu chung một hình khổ”. Tên lạc giáo Isidore run lẩy bẩy hỏi lại: “Ông là ai?” Người này trả lời: “Tôi là kẻ đã vả vào mặt Đức Chúa GIÊSU nơi nhà thượng tế Cai-pha, trong cuộc Khổ Nạn của Người”, (Gioan 18,22). Nói xong, người này biến mất.

Câu nói và hình thù kinh tởm của người chết hiện về đủ để mở mắt tinh thần ông lạc giáo. Ông Isidore nhận ra ngay tội lỗi tầy trời của mình. Ông thật lòng thống hối và xin ẩn mình vào một đan viện. Nơi đây, ông dành cả cuộc đời để sống Chay tịnh đền bù tội lỗi của mình.

... Câu chuyện sau đây cũng xảy ra vào thế kỷ thứ VI tại thành phố Engine ở Cilicie, miền Nam nước Thổ-nhĩ-kỳ..

Nơi thành phố có hai người sinh sống. Một là tín hữu Công Giáo đạo đức. Một là đồ đệ nhóm lạc giáo Sévère. Nhóm lạc giáo tìm mọi cách đánh phá niềm tin vào Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể. Tạm gọi tín hữu Công Giáo là Bartolomeo và tên lạc giáo là Cyrus. Cyrus không bỏ lỡ cơ hội nào mà không chế nhạo tín hữu Công Giáo. Ông Bartolomeo nhẫn nhục giữ thinh lặng, không hé môi đáp lại.

Để chấm dứt một cuộc nhạo báng kéo dài khá lâu, ông Bartolomeo quyết định ra tay hành động. Ông xin tên Cyrus gởi cho ông mẩu bánh nhóm lạc giáo Sévériens vẫn rước mỗi khi cử hành thánh lễ theo nghi thức của họ. Tên Cyrus hớn hở chấp nhận vì nắm chắc phần thắng. Cyrus sai người mang mẩu bánh đến cho ông Bartolomeo.

Trong khi đó ông Bartolomeo cẩn thận dọn một thùng nước sôi. Khi sứ giả nhóm lạc giáo mang mẩu bánh đến, ông Bartolomeo mạnh tay vứt ngay vào thùng nước. Mẩu bánh tan mất trong nháy mắt trước sự chứng kiến của sứ giả lạc giáo. Liền ngay sau đó, ông Bartolomeo trang trọng mang Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ ông đang cất giữ và cũng bỏ vào thùng nước sôi. Trái với hiện tượng trước đó, Mình Thánh Chúa không chìm xuống, nhưng nằm im trên mặt nước, khô ráo. Nước trong thùng cũng đổi từ độ nóng sang độ lạnh.

Trước sự kiện lạ lùng, ông Bartolomeo dõng dạc nói với sứ giả lạc giáo:

- Anh hãy về nói với ông bạn đồ đệ lạc giáo rằng: “Chỉ có Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU trong Thánh Lễ do Giáo Hội Công Giáo cử hành mới là Mình Thánh Chúa thật”. Anh đã chứng kiến phép lạ Đức Chúa GIÊSU dùng để đánh bại những kẻ nào cả gan xúc phạm đến Ngài.

(Père Eugène Couet, ”Les Miracles Historiques du Saint Sacrement”, Éditions D.F.T, Réédition 1998).



PHÉP LẠ THÁNH THỂ (IV)


Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt

1. PHÉP LẠ THÁNH THỂ TẠI FIRENZE (BẮC Ý)

Thứ sáu 30-12-1230, Cha Huguccion một vị Linh Mục lão thành, cử hành Thánh Lễ nơi nhà thờ Thánh Ambrogio ở ngoại thành Firenze (Bắc Ý). Nhà thờ thuộc về đan viện các nữ tu Biển Đức. Vị Linh Mục tuổi cao mắt kém, khi chịu lễ đã để sót lại nơi Chén Thánh một giọt rượu đã truyền phép, tức là Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Khi đổ rượu vào Chén Thánh để tráng, Cha Huguccion mới thấy là giọt rượu đã chuyển thành máu đỏ thẫm. Trong hai lần liên tiếp, Cha thấy giọt máu phân ra 3 phần đều nhau. Rồi 3 phần giọt máu kết hợp lại và nổi lên trên mặt rượu đổ vào để tráng Chén Thánh, giống như giọt dầu nổi lên trên mặt nước.

Cha Huguccion bàng hoàng xúc động. Lòng Cha trào dâng niềm kính trọng thánh thiêng. Cha bỗng bật lên khóc nức nở. Các nữ tu Biển Đức vội vàng chạy lên bàn thờ vì nghĩ rằng có lẽ vị Linh Mục cao tuổi bị mệt bất ngờ chăng. Nhưng khi lên đến nơi các Chị mới hiểu sự việc và kinh ngạc trước Phép Lạ Thánh Thể. Chị Taida - Nữ Đan Viện Trưởng - nhanh chân đi lấy một bình thủy tinh dùng để đựng Dầu Thánh và đưa cho vị Linh Mục. Cha Huguccion trang trọng đổ vào bình thủy tinh Giọt Máu Thánh cùng với phần rượu để tráng Chén Thánh. Sau đó, Cha lấy lại bình tĩnh và tiếp tục dâng hết Thánh Lễ.

Giọt Máu Thánh được kính cẩn đặt vào Nhà Tạm. Nhưng 3 ngày sau, một Phép Lạ Thánh Thể khác diễn ra. Xuyên qua bình thủy tinh, người ta trông thấy Giọt Máu Thánh giờ đây chuyển thành Tấm Thịt Thánh và treo lơ lửng bên trong bình thủy tinh, không chạm vào thành bình thủy tinh. Ngoài ra phần rượu chưa được truyền phép bỗng chuyển thành màu hồng rồi khô đi và biến mất, không để lại dấu vết gì cả.

Tiếng vang Phép Lạ Thánh Thể đồn ra khắp thành Firenze. Vị Giám Mục giáo phận lúc bấy giờ là Đức Cha Ardingo. Ngài cử nhiều Linh Mục đến nhà thờ Thánh Ambrogio để lấy bình thủy tinh đựng Phép Lạ Thánh Thể và đem về điều tra thật kỹ lưỡng. Sau đó Đức Cha giữ thánh tích Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ tại tòa giám mục.

Tuy nhiên sắp đến ngày mừng lễ Thánh Ambrogio (339-397), các nữ tu Biển Đức muốn xin Đức Giám Mục trao lại thánh tích. Các Chị nhờ các Linh Mục dòng Phanxicô đến tòa giám mục rước về. Thế là Thánh Thể Phép Lạ được long trọng rước về nhà thờ Thánh Ambrogio giữa tiếng hát chúc tụng các bài Thánh Thi và Thánh Ca của một đoàn ngũ đông đảo các tín hữu Công Giáo đạo đức và sốt sắng.

Về phần Đức Cha Ardingo, vị Giám Mục dửng dưng cứng cỏi và thiếu lòng yêu mến kính trọng đối với Phép Lạ Thánh Thể, ngài sớm bị chính Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể khiển trách. Ngay đêm sau đó trong giấc ngủ, Đức Cha Ardingo nghe một tiếng nói rõ ràng rót vào tai: “Hỡi giám mục, người tiếp rước Ta lạnh lùng và trả lại Ta cũng lạnh lùng trơ trụi!” Tiếng nói lập lại ba lần như thế. Vị giám mục giật mình thức giấc. Lời trách cứ khiến vị giám mục mở mắt tinh thần. Ngài hiểu ngay thái độ bất xứng của mình đối với Phép Lạ Thánh Thể trọng đại. Đức Cha Ardingo thật lòng ăn năn thống hối. Ngài lập tức đặt làm một Nhà Tạm bằng ngà chạm các mảnh mỏng bằng vàng và phủ khăn nhung màu đỏ thẫm. Đức Cha cho người mang Nhà Tạm đến nhà thờ các nữ tu Biển Đức để các Chị đặt vào Nhà Tạm Mình Thánh Phép Lạ Đức Chúa GIÊSU KITÔ.

Thế nhưng Mình Thánh Phép Lạ vẫn còn ở trong bình thủy tinh bình thường. Một lần nữa, chính Đức Mẹ MARIA lại can thiệp để Mình Thánh Chúa được cất giữ cách tương xứng. Đức Mẹ hiện ra trong giấc mơ với một thiếu nữ thuộc đan viện Thánh Ambrogio. Đức Mẹ truyền cho thiếu nữ báo cho Chị Margarita - nữ tu lo phòng thánh - biết: Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU vẫn chưa có nơi trú ngụ xứng đáng. Được ơn trên soi sáng, Chị Margarita hiểu ngay phải chuẩn bị một Chén Thánh thật đẹp thay cho bình thủy tinh đang đựng Mình Thánh Chúa. Sau khi đặt các nhà điêu khắc tài ba làm một Chén Thánh tuyệt mỹ, Đức Cha Ardingo đích thấn đến nhà thờ Thánh Ambrogio. Chính ngài đặt Mình Thánh Phép Lạ vào trong Chén Thánh mới rồi long trọng đặt vào Nhà Tạm.

2. PHÉP LẠ THÁNH THỂ TẠI REGENSBURG (NAM ĐỨC)

Thứ Năm Tuần Thánh 25-3-1255 một Linh Mục ở Regensburg, thuộc bang Bavière, Nam Đức, mang Mình Thánh Chúa cho một bệnh nhân hấp hối. Trên đường đi, khi ra tới cửa thành, Cha bỗng gặp một con lạch bị nước lũ tràn ngập, chỉ còn một tấm ván mỏng manh. Vừa đặt chân lên tấm ván, vị Linh Mục bị trợt té và làm văng bình đựng Mình Thánh Chúa. Trước cảnh tượng này, một nhóm tín hữu Công Giáo vội vàng chạy đến cứu giúp. Họ cố gắng vượt mức mới có thể vớt được Bánh Thánh. Mặc dầu đây là cuộc phạm thánh ngoài ý muốn, các tín hữu đạo đức vẫn cảm thấy đau lòng và quyết định cử hành lễ nghi phạt tạ bí tích Thánh Thể.

Ngay ngày hôm ấy, dân thành Regensburg khởi công xây một nhà nguyện tại chính nơi xảy ra tai nạn Mình Thánh Chúa bị rơi. Nhà nguyện nhỏ bằng gỗ thật đơn sơ. Khi nhà nguyện hoàn tất người ta liền đặt Mình Thánh Chúa và ngày 8-9-1255, Đức Cha Albert, giám mục sở tại, làm nghi thức cung hiến nhà nguyện. Nhà nguyện được dâng kính Đấng Cứu Thế - in honorem Salvatoris.

Kể từ sau khi nhà nguyện được thánh hiến, các tín hữu Công Giáo kéo đến đông đảo kính viếng nhà nguyện. Có lẽ chính vì lòng đạo đức tôn kính Mình Thánh Chúa của các tín hữu Regensburg mà Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể đã làm một phép lạ. Phép lạ xảy ra năm 1257 như dấu chứng khẳng định Đức Tin của các tín hữu Công Giáo đối với bí tích Tình Yêu Nhiệm Mầu. Câu chuyện diễn tiến như sau.

Một Linh Mục đến dâng Thánh Lễ nơi nhà nguyện. Vào lúc đọc lời truyền phép rượu, vị Linh Mục bỗng đâm ra nghi ngờ. Ngài phân vân tự hỏi:
- Làm sao lời do người phàm đọc lại có sức nhiệm mầu biến đổi rượu thành Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ được?
Tâm hồn vị Linh Mục thật sự bị bấn loạn bởi tư tưởng gây hoang mang cho niềm tin tuyệt đối vào sự hiện diện đích thật của Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể. Trong lúc do dự và không giơ cao Chén Thánh cho giáo dân thờ lạy thì vị Linh Mục bỗng nghe tiếng động nhẹ từ phía Cây Thánh Giá bên trên Nhà Tạm. Đôi tay của tượng Đức Chúa GIÊSU chịu đóng đanh từ từ tiến về phía vị Chủ Tế và giật lấy Chén Thánh giơ cao cho tín hữu thờ lạy Máu Thánh Chúa.
Trước phép lạ tỏ tường, vị Linh Mục liền quì sụp xuống. Niềm nghi nan giờ đây nhường chỗ cho nỗi lo âu kinh hoàng, cùng lúc nẩy sinh Đức Tin không lay chuyển. Vị Linh Mục khiêm tốn xưng thú lỗi lầm, công khai xin tha thứ và cảm động khóc ròng. Như dấu hiệu chứng nhận lòng thống hối và đức khiêm tốn của vị Linh Mục, Đức Chúa GIÊSU Cứu Thế hạ đôi tay xuống và đặt Chén Thánh vào đôi tay vị Linh Mục.

Kể từ sau phép lạ Thánh Thể, nhà nguyện trở thành nơi hành hương dấu ái của các tín hữu Công Giáo thành Regensburg cũng như của toàn nước Đức. Mỗi lần đến kính viếng nhà nguyện, các tín hữu thường quảng đại dâng cúng tiền bạc cũng như lễ vật.

Năm 1620 chính quyền thành phố khởi công xây cất một thánh đường lớn bên cạnh nhà nguyện nhỏ và nhà nguyện nhỏ cũng được sửa lại bằng đá. Đức Giám Mục giáo phận giao cho các Tu Sĩ dòng Thánh Augustino trông coi nhà thờ và nhà nguyện. Các Tu Sĩ có nhiệm vụ lo phần Phụng Vụ, đọc kinh nguyện và phục vụ các tín hữu hành hương. Các vị chu toàn bổn phận cho đến năm 1803 là năm bị tục hóa. Đến năm 1838 nhà thờ bị hư hại rồi bị tàn phá bình địa. Nhưng nhà nguyện nhỏ nơi diễn ra Phép Lạ Thánh Thể vẫn tiếp tục kiên cố với thời gian. Nhà nguyện được tu sửa và được trang hoàng thật đẹp. Ngày 18-9-1855 Đức Cha Valentino tái thánh hiến nhà nguyện.

Ngày nay nhà nguyện có bị cũ đi, nhưng Cây Thánh Giá với tượng Đức Chúa GIÊSU KITÔ làm phép lạ vẫn còn đó như dấu chứng Đức Tin kiên vững của các tín hữu Công Giáo Đức. Họ thường xuyên đến kính viếng nhà nguyện và thờ lạy Đức Chúa GIÊSU KITÔ Thánh Thể ẩn náu trong Nhà Tạm.

3. PHÉP LẠ THÁNH THỂ TẠI SAN-PIETRO DI PATERNO (NAM Ý).

Ngày 28-1-1772 tại làng San-Pietro di Paterno cách thành phố Napoli (Nam Ý) 2 ngàn dặm, xảy ra một vụ phạm thánh trầm trọng. Bọn gian phi lẻn vào nhà thờ ăn trộm 2 Bình Thánh đựng đầy Mình Thánh Chúa.

Mấy ngày sau, ông Pasquale Capozzi - một nông dân ở làng gần đó - trông thấy nơi đống phân bón bên cạnh lẫm lúa nhà ông có một chân của Bình Thánh bị đánh cắp. Tức tốc mọi người ra công tìm kiếm các dấu vết của Bánh Thánh. Nhưng tuyệt nhiên không thấy Bánh Thánh nào. Ai ai cũng nghĩ có lẽ nhóm gian phi đã thủ tiêu các Bánh Thánh hầu không để lại dấu vết nào .. Dần dần dân làng quên bẵng vụ trộm Mình Thánh Chúa.

Nhưng THIÊN CHÚA Quan Phòng xếp đặt cách khác.

3 tuần sau, vào chiều 19-2, Giuseppe Orefice 17 tuổi từ Napoli trở về Paterno. Khi rẻ vào đường cái từ Capodichino đến Casoria anh bỗng trông thấy một đám ruộng rực sáng trong nông trại của ông Pasquale Capozzi. Chiều hôm sau, anh cũng trông thấy quang cảnh tương tự. Anh lo sợ đem câu chuyện kể cho song thân nghe. Nhưng mọi người chế nhạo anh.

Sáng sớm hôm sau nữa, Giuseppe cùng với thân phụ là ông Angelo và em trai Giovanni 10 tuổi lên đường đến thành phố Napoli. Khi đi ngang cánh đồng của nông trại ông Capozzi, cảnh lạ tái xuất hiện. Cậu Giovanni nhìn thấy và reo vui. Giuseppe cũng trông thấy như em trai. Nhưng ông Angelo lại không thấy gì cả.

Câu chuyện đến tai 2 vị Linh Mục thuộc giáo phận Napoli, Cha Geromino và Cha Giacomo Guarino. Cùng với Cha Sở, vào đêm khuya 24-2, cả 3 vị đến nơi xảy ra hiện tượng lạ. Giuseppe cùng em trai Giovanni và một trẻ khác tên Thomas Piccini tháp tùng 3 Linh Mục. Đến nơi được một lúc thì cả 3 trẻ được trông thấy hiện tượng lạ. Ngoài 3 trẻ ra, không ai khác được trông thấy ánh sáng lạ. Mọi người đến nơi 3 trẻ chỉ và tìm xem có gì khác thường không. Nhưng không ai tìm ra điều gì khác lạ.

Tối hôm sau, Cha Giuseppe Lindinier cùng đi với 3 Linh Mục nói trên. Giờ đây 4 vị Linh Mục xác tín rằng, THIÊN CHÚA đã chọn các trẻ thơ để tỏ lộ các bí nhiệm. Vì thế các vị mang thêm 4 trẻ khác. Đến nơi được một lúc thì các thiếu niên trông thấy ánh sáng lạ bao quanh gốc cây bạch dương. Mọi người lại ra công tìm kiếm, nhưng không thấy gì đặc biệt.

Các Linh Mục bỏ ra về. Sau đó nhóm trẻ cũng theo gót các vị. Nhưng khi các trẻ ra đến đường cái thì đám đông nơi cánh đồng lại la ó ồn ào. Nhóm trẻ như bị sức thần lôi kéo vội vàng trở lui. Các trẻ cũng như bị sức thần ném ngã rạp xuống đất. Vừa khi lóc ngóc đứng dậy chúng lại bị luồng ánh sáng chiếu ra từ cây bạch dương làm lóa mắt. Rồi từ luồng sáng chói chang này một chim bồ câu cất cánh bay lên và biến mất.

Mọi người tức tốc đào bới mảnh đất chung quanh cây bạch dương. Bỗng cậu bé Thomas Piccini thấy một vật tròn trắng tinh nằm trên đám cỏ xanh. Đến gần thì thấy đó là Mình Thánh Chúa. Một người nhanh chân chạy đi tìm Cha Giacomo Guarino. Lúc ấy là 2 giờ sáng. Đến nơi, Cha Giacomo vô cùng cẩn trọng dùng tay bới đất tìm kiếm Mình Thánh Chúa. Cha thật an ủi khi tìm thấy 40 Bánh Thánh vẫn còn nguyên vẹn. Cha để ngay vào Bình Thánh và đặt Bình Thánh trên bàn thờ thô sơ vừa được dựng lên dưới chân cây bạch dương. Với giọng run run cảm động Cha cất tiếng hát Kinh Tạ Ơn THIÊN CHÚA - TE DEUM.

40 Bánh Thánh nằm dưới đất gần một tháng nhưng không mảy may hư hại, mặc dầu mùa đông giá lạnh với những cơn mưa tầm tã. Thêm vào đó, phần đất chạm tới Mình Thánh Chúa vẫn khô ráo. Tuy nhiên, dân làng chưa thỏa nguyện. Bởi lẽ khi vụ phạm thánh diễn ra, trong Nhà Tạm có đến 2 Bình Thánh chứa khoảng 100 Bánh Thánh. Vậy thì các Bánh Thánh còn lại bị chôn dấu nơi đâu?

Tối hôm sau đó, nhóm trẻ hướng dẫn cuộc tìm kiếm lại trông thấy ánh sáng lạ. Chúng vội báo tin và mời Cha Giacomo Guarino đến ngay. Mọi người tìm kiếm thật lâu nhưng không thấy gì. Bỗng chốc Giuseppe Orefice quì sụp xuống nơi mảnh đất cần phải đào bới. Cha Guarino dùng dao để bới cho nhanh. Cha bỗng nghe một tiếng động nhẹ như tiếng bẻ bánh và Cha thấy miếng đất như chiếc vung chụp bể ra. Trước mắt Cha xuất hiện hơn 50 Bánh Thánh trắng tinh, nguyên vẹn y như 40 Bánh Thánh tìm thấy tối hôm trước.

Diễn tả sao cho hết nỗi niềm hân hoan cùng lòng tri ân THIÊN CHÚA của dân làng Paterno. Họ long trọng rước Mình Thánh Chúa về Nhà Thờ. Tại đây một lần nữa mọi người cất tiếng hát Kinh tạ ơn TE DEUM.

(Père Eugène Couet, ”Les Miracles Historiques du Saint Sacrement”, Éditions D.F.T, Réédition 1998).



PHÉP LẠ THÁNH THỂ (V)


Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt

1. MÁU THÁNH NHUỘM ĐỎ KHĂN THÁNH VÀ KHĂN TRẢI BÀN THÁNH.

Boxtel là thành phố nhỏ nằm cách Bois-le-Duc 2 dặm bên nước Hòa-Lan. Nơi đây vào năm 1380 đã diễn ra một Phép Lạ Thánh Thể. Câu chuyện diễn tiến như sau.

Linh Mục Eloi Aecker quản nhiệm thánh đường Đức Chúa Thánh Thần ở Essche. Một hôm Cha đến dâng Thánh Lễ tại nhà thờ Thánh-Phêrô ở Bostel nơi bàn thờ dâng kính Ba Vua. Sau khi đọc Lời Truyền Phép Bánh và Rượu, không rõ vì lúng túng thế nào, Cha làm đổ Chén Thánh. Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU đổ ra. Máu Thánh ban đầu mang màu rượu nho trắng, bỗng biến nhanh thành màu đỏ thắm của Máu, ghi rõ vết trên Khăn Thánh và khăn trải bàn thánh. Thật ra trước đó, tận nơi kín ẩn tâm hồn, Cha Eloi Aecker bị dằn vặt bởi nỗi nghi ngờ về sự hiện diện đích thực của Đức Chúa GIÊSU KITÔ trong Hình Bánh và Hình Rượu sau khi vị Linh Mục đọc Lời Truyền Phép. Giờ đây nhìn thấy tận mắt Rượu Thánh mang màu đỏ thắm của máu tươi, Cha cảm thấy kinh hoàng. Cùng lúc, Đức Tin của Cha được củng cố.

Tuy nhiên, Cha Eloi Aecker muốn giữ kín Phép Lạ Thánh Thể, không tỏ lộ cho ai biết. Sau Thánh Lễ, Cha kín đáo mang Khăn Thánh và Khăn trải Bàn Thánh về nhà. Cha dự định giặt sạch các dấu vết Máu in trên 2 Khăn Thánh rồi sẽ mang trả lại Nhà Thờ.

Nhưng càng giặt Cha càng cảm thấy bàng hoàng sợ hãi. Bởi lẽ, các vết Máu Thánh vẫn giữ nguyên trên 2 Khăn Thánh. Cha vội mang 2 Khăn Thánh ra con suối bên cạnh để giặt. Suối này chảy ra bờ sông Dommel. Cha thầm nghĩ: Có lẽ nước suối chảy sẽ có sức mạnh tẩy sạch các vết Máu in rõ nơi 2 Khăn Thánh. Nhưng hoài công. Các vết Máu vẫn giữ nguyên màu sắc như ban đầu. Cha Eloi Aecker lại tìm cách khác: sau khi giặt Cha đem phơi 2 Khăn Thánh thật lâu ngoài nắng. Cha làm như thế rất nhiều lần, nhưng vô ích. Mặc dầu thế, Cha vẫn không tiết lộ Phép Lạ Thánh Thể. Mãi đến lúc gần sinh thì, trên giường dọn mình chết, Cha mới trình bày mọi chi tiết liên quan tới Phép Lạ Thánh Thể cho Cha Giải Tội biết, trước sự hiện diện của 2 nhân chứng.

Sau khi Cha Eloi Aecker qua đời, Phép Lạ Thánh Thể được công bố. Kể từ đó tín hữu Công Giáo thành Boxtel cũng như toàn vùng được củng cố trong Đức Tin và được tăng thêm lòng sùng kính đối với bí tích Thánh Thể. Họ lũ lượt kéo đến kính viếng 2 Khăn Thánh có in dấu Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Tín hữu âu yếm đặt tên cho thánh tích Thánh Thể là Khăn Máu-Thánh thành Boxtel. Nhà thờ lưu giữ 2 Khăn Thánh trở thành địa điểm hành hương nổi tiếng nhất trong vùng.

Lòng sùng kính của các tín hữu Công Giáo Hòa Lan đối với Phép Lạ Thánh Thể thành Bostel đã được Đức Chúa GIÊSU thưởng công bội hậu. Các tín hữu hành hương nhận được rất nhiều phép lạ. Nhiều người được chữa khỏi bệnh hoạn tật nguyền. Trên tường nhà thờ gắn đầy bảng đá ghi ơn. Các nạn chống do các tín hữu khỏi bệnh để lại nhiều đến độ người ta phải đem đốt đi.

Các tín hữu Công Giáo còn đi xa hơn trong Đức Tin đối với Phép Lạ Thánh Thể. Họ uống nước nơi con suối Cha Eloi Aecker đã giặt Khăn Thánh. Với lời khẩn cầu tha thiết, nhiều người cũng được khỏi bệnh hoặc được giải thoát khỏi ma quỉ ám hại.

Tâm tình các tín hữu sùng kính đối với Phép Lạ Thánh Thể kéo dài trong vòng hai thế kỷ, cho đến lúc các bè rối nổi lên chống lại Giáo Hội Công Giáo. Để gìn giữ khỏi các vụ phạm thánh, các tín hữu Công Giáo đem Khăn Máu-Thánh thành Boxtel dấu ẩn nơi kín đáo an toàn. Sau đó họ đưa Khăn Thánh về thành Bois-le-Duc rồi về đan viện Thánh-Micae ở Anvers. Sau cùng nhà thờ Hoogstraten được chọn làm nơi cất giữ thánh tích Phép Lạ Thánh Thể kể từ ngày 20-5-1652.

Bao thế kỷ đã trôi qua, nhưng Khăn Máu-Thánh thành Boxtel vẫn giữ nguyên vẹn không bị hư hại hay biến đổi với thời gian.

2. XÚC PHẠM ĐẾN THÁNH THỂ: BỊ TRỪNG PHẠT

Sau nhiều năm phá rối Anh quốc bằng những luận cứ độc hại nhằm đánh tan nguồn gốc thánh thiêng của Giáo Hội Công Giáo và tín điều bất khả ngộ của Đức Giáo Hoàng, vào năm 1381, ông tổ lạc giáo Wiclef John (1320-1384) bắt đầu công khai xúc phạm đến bí tích Thánh Thể. Ông bác bỏ Đức Tin và công kích giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo liên quan đến việc Truyền Phép. Ông tuyên truyền:

- Bản chất của bánh và rượu vẫn giữ nguyên sau khi vị linh mục đọc lời Truyền Phép. Đức Chúa GIÊSU KITÔ quả thật không hiện diện thực sự trong bí tích Thánh Thể. Vì thế, Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể không xứng đáng cho chúng ta tôn kính và thờ lạy!

Wiclef John còn cả gan nói lộng ngôn:

- Loài vật đứng hàng thứ yếu sau loài người, vẫn xứng đáng cho chúng ta dành mọi tôn kính hơn là “Bánh” sau khi được “Truyền Phép” trong Thánh Lễ!

Điều đáng buồn là lạc thuyết của Wiclef đã gặp được nhiều đồ đệ ngông cuồng của vương quốc Anh thời đó. Xin trưng dẫn một trường hợp điển hình.

Một thợ may chuyên nghiệp tên John giao trọn linh hồn và xác cho bè rối Wicléfisme. Ông trở thành người cuồng tín số một của lạc giáo. Ông dồn mọi nhiệt huyết cho việc loan báo tà thuyết. Ông tuyên truyền tại tư gia. Ông thuyết giảng cho đám đông dân chúng. Chính trong một buổi rao truyền lạc giáo nơi công cộng mà ông John bị giáo quyền bắt giam. Người ta đưa ông ra xử nơi tòa án của nhà thờ Thánh Phaolo ở thủ đô Luân-Đôn.

Đức Cha Thomas d'Arundel, Tổng Giám Mục Canterburry bấy giờ, tra vấn bị cáo liên quan đến Đức Tin của bị cáo đối với bí tích Thánh Thể. Ông John đáp ngay không chút do dự:

- “Bánh” được “Truyền Phép” chỉ là “bánh” được “chúc lành”, không hơn không kém. Tôi xin quả quyết như thế và tôi cũng trọn lòng tin tưởng như vậy!

Mặc cho mọi lý lẽ vững mạnh nhất vẫn không thuyết phục và lay chuyển được tâm trí ông lạc giáo John. Sau cùng, Đức Tổng Giám Mục Thomas truyền cho ông John phải sấp mình thờ lạy Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Ông John vẫn ngoan cố đáp:

- Tôi thà thờ lạy con nhện, cho dù đó là con vật đáng ghê tởm nhất, còn hơn quì gối trước “Bánh Thánh Thể” của các ông!

Trời Cao tức khắc đáp lại thách thức “động trời” của ông lạc giáo. Ngay lúc ấy, mọi người có mặt nơi phiên xử đều trông thấy một con nhện khổng lồ khủng khiếp rơi từ trần nhà thờ xuống trước mặt ông John. Con nhện rơi thẳng trên đôi môi kẻ vừa nói lời lộng ngôn. Chưa hết, con nhện tìm mọi cách đi thẳng vào miệng ông John. Phải khó nhọc lắm người ta mới kéo con nhện ra khỏi miệng ông John.

Sự kiện trên đây diễn ra trước sự chứng kiến của nhiều nhân vật đạo đời thuộc vương quốc Anh. Ngoài các vị Giám Mục Công Giáo còn có sự hiện diện của ông Edmond, công tước miền York và ông Thomas d'Oxone, quan chưởng ấn của triều đình. Tất cả kinh hoàng trước sự trừng phạt nhãn tiền của THIÊN CHÚA đối với kẻ phạm thượng. Đức Tổng Giám Mục Thomas d'Arundel liền đứng lên thuyết giảng về sự hiện diện thật sự của Đức Chúa GIÊSU KITÔ trong Hình Bánh và Hình Rượu sau khi vị Linh Mục đọc lời “Truyền Phép” trong Thánh Lễ.

3. TỪ ĐỒ ĐỆ LẠC GIÁO ĐẾN HIỆP SĨ ĐỨC CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ

Năm 1382 diễn ra Công Nghị Luân-Đôn, dưới quyền chủ tọa của Đức Cha Guillaume Courtenay. Công Nghị bác bỏ và kết án các lý thuyết của bè rối Wicléfisme. Trong những ngày Công Nghị nhóm họp, giáo quyền thủ đô Luân-Đôn tổ chức cuộc rước kiệu Thánh Thể trọng thể với mục đích đền bù phạt tạ những lộng ngôn xúc phạm đến Đức CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ. Đức Giám Mục Guillaume Courtenay cũng tham dự cuộc rước kiệu. Ngài đi chân không, cùng với toàn thể hàng giáo sĩ và tất cả các tín hữu Công Giáo trong giáo phận, gồm đủ mọi thành phần xã hội với tuổi tác khác nhau, từ già đến trẻ. Mọi người muốn phạt tạ Thánh Thể Đức Chúa GIÊSU KITÔ bằng nước mắt và bằng lời nguyện cầu tha thiết. Xin THIÊN CHÚA nhân lành tha thứ và ban ơn hoán cải cho các tín hữu lầm lẫn đi theo bè rối Wicléfisme.

Hôm sau cuộc rước kiệu, ông Cornélius Glovius đến tham dự Thánh Lễ nơi tu viện các Anh Em Giảng Thuyết dòng thánh Đa-Minh. Ông Cornélius Glovius là hiệp sĩ nổi tiếng của vương quốc Anh vừa là thành viên cuồng nhiệt của bè rối. Người ta không rõ lý do nào thúc đẩy ông đến dự Thánh Lễ, chỉ biết rằng, chính nơi đây THIÊN CHÚA chờ đợi ông. Vào lúc Linh Mục giơ cao Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU cho mọi người thờ lạy, ông Cornélius không thấy gì khác ngoài Tấm Bánh Trắng. Nhưng khi vị Linh Mục phân chia Bánh Thánh, ông hiệp sĩ lạc giáo trông thấy giữa các ngón tay vị Linh Mục rõ ràng ba Miếng Thịt, chứ không phải hình dạng Bánh. Rồi khi vị Linh Mục cầm một phần Thánh Thể và giơ cao bên trên Chén Thánh thì phần Thánh Thể ấy lại trở về với hình dạng Bánh Thánh, nhưng mang chữ GIÊSU viết bằng máu.

Hiệp sĩ Cornélius Glovius là người duy nhất được đặc ân trông thấy hiện tượng lạ trên đây. Bởi vì, khi ông chất vấn các đầy tớ tháp tùng ông thì những người này quả quyết họ không trông thấy gì.

Ngày hôm sau, nhằm Chúa Nhật lễ trọng kính THIÊN CHÚA Ba Ngôi, một vị Linh Mục thời danh thuyết giảng trước công chúng tại nhà thờ Thánh Phaolô. Ông Cornélius Glovius cũng đến đây và xin vị Linh Mục kể lại cho đám đông nghe hiện tượng lạ chính ông được diễm phúc chứng kiến ngày hôm trước. Sau lời kể của vị giảng thuyết, ông Cornélius Glovius liền đứng lên và làm chứng cho những lời kể của vị Linh Mục là đúng sự thật. Ông còn quả quyết thêm:

- Chính THIÊN CHÚA can thiệp để biến đổi con tim chai cứng của tôi thành con tim khiêm tốn. Tôi xin lớn tiếng tuyên xưng rằng: tôi tin vững vàng nơi sự hiện diện thật sự của Đức Chúa GIÊSU KITÔ trong Bí Tích Thánh Thể.

Tất cả các tín hữu Công Giáo có mặt nơi nhà thờ Thánh Phaolô ở thủ đô Luân-Đôn hôm ấy cảm động và vui mừng không kể xiết. Bởi vì, mới mấy ngày trước đây, ông còn là một đồ đệ cuồng tín trung thành của lạc thuyết Wicléfisme. Vậy mà giờ đây chỉ một sớm một chiều ông trở thành người bênh vực và là hiệp sĩ của Đức Chúa GIÊSU KITÔ Thánh Thể. Từ đó, với lý luận vững chắc đi kèm cuộc hoán cải công khai, ông Cornélius Glovius trở thành một trong những kẻ đánh bại các luận cứ sai lầm của bè rối Wicléfisme.

(Père Eugène Couet, ”Les Miracles Historiques du Saint Sacrement”, Éditions D.F.T, Réédition 1998).



PHÉP LẠ THÁNH THỂ (VI)


Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt

THÁNH NỮ CHIARA ASSISI VÀ CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ
Thánh nữ Chiara (1193-1253) thành Assisi sống đồng thời với thánh Phanxicô (1182-1226), cũng thành Assisi (Trung Ý). Chiara đã nối gót thánh Phanxicô trên con đường yêu chuộng sự đơn sơ và nghèo khó. Chính thánh nữ đã thành lập dòng các Nữ Tu Kín Clarisses.

Thánh nữ Chiara có lòng đặc biệt yêu mến Chúa GIÊSU Thánh Thể. Khi viết cuộc đời thánh nữ, không sử gia nào bỏ sót câu chuyện thánh nữ Chiara đã đuổi quân giặc hồi giáo chạy tán loạn, nhờ Chúa GIÊSU Thánh Thể.

Vào năm 1243 - tức 10 năm trước khi thánh nữ Chiara qua đời - một nhóm quân hồi giáo, do tên trùm Vitale d'Aversa cầm đầu, nhất quyết xâm lăng Đan viện các nữ tu Kín Clarisses ở San Damiano (Trung Bắc Ý).

Đan viện thinh lặng, an bình, nghèo khó của các nữ tu thiên thần, bất ngờ bị phá rối vì những tiếng chửi rủa, gào thét, đe dọa của nhóm người hồi giáo quá khích và khát máu. Họ muốn xâm phạm nơi thánh cũng như những người thánh trú ẩn trong đan viện. Vì biết rõ dụng ý của họ nên một người dân thành Assisi đã tức tốc báo tin cho các nữ tu biết. Các nữ tu xôn xao hốt hoảng. Như đàn gà con ngơ ngác, các nữ tu vội chạy đến phòng Viện Mẫu Chiara. Lúc ấy thánh nữ Chiara đang phủ phục cầu nguyện. Nghe tiếng động, thánh nữ vội đứng lên để tiếp đón đàn con run rẩy sợ hãi. Thánh nữ Chiara điềm tĩnh ra lệnh:

- Tất cả các con phải xếp hàng trong trật tự và lòng tin, đi xuống nhà nguyện, vừa đi vừa giữ thinh lặng theo luật dạy. Bởi vì, không có bất cứ lý do gì cho phép chúng ta được phá luật!
Các nữ tu vâng lời, run rẩy đi xuống nhà nguyện. Thánh nữ Chiara đi sau cùng.

Ngôi nhà nguyện thô sơ chỉ được chiếu sáng bởi hai ngọn đèn dầu. Một ngọn trước Nhà Tạm và một ngọn nơi các nữ tu quỳ hát kinh Thần Vụ. Hai ngọn đèn tuy nhỏ, nhưng đủ sức tỏa sáng và làm tăng nét linh thiêng của nơi thánh. Ngọn đèn nhắc nhở sự hiện diện thật sự của Chúa GIÊSU, ngự trong Bánh Thánh nơi Nhà Tạm.

Các nữ tu sốt sắng cầu nguyện. Từ bên ngoài vọng vào những tiếng la hét ầm ĩ. Một nữ trợ sĩ hốt hoảng chạy thẳng vào nhà nguyện. Chị dừng lại nơi ngưỡng cửa và nói lớn: “Mẹ ơi, họ tới trước cửa rồi!” Nghe thế, mọi người gập mình xuống như linh cảm giờ sau cùng đã điểm. Các nữ tu hoảng sợ, nhưng Mẹ Bề Trên Chiara thì không. Mẹ bình tĩnh ra đứng giữa nhà nguyện và nói:

- Các con đừng sợ. Họ chỉ là một nhóm ít người và ở bên ngoài đan viện. Còn chúng ta, chúng ta đang ở đây, bên trong nhà nguyện, và với Chúa GIÊSU. Các con nên nhớ lại lời Ngài phán: “Các con không bị đụng đến một sợi tóc!” Chúng ta là những chim bồ câu của Ngài. Ngài sẽ không để cho những kẻ hung dữ xúc phạm đến chúng ta ..

Bên ngoài tiếng la hét mỗi lúc một vang to, át cả tiếng nói nhẹ nhàng của mẹ bề trên Chiara. Thấy rõ lời nói của mình vẫn chưa đủ sức trấn an các Nữ Tu Kín quá sợ hãi, thánh nữ Chiara bèn thưa chuyện trực tiếp với Chúa GIÊSU Thánh Thể:

- Lạy Chúa GIÊSU dịu hiền của con, xin tha thứ cho Chiara tội nghiệp này, nếu con dám đặt tay vào nơi mà chỉ mình vị Linh Mục mới được đụng tới. Nhưng ở đây chỉ có Chúa và chúng con thôi. Và một người trong chúng con phải thưa với Chúa: “Xin đến”. Đôi bàn tay con đã được nước mắt tẩy luyện, nên chúng có thể chạm đến ngai tòa Chúa.

Cầu nguyện xong, thánh nữ Chiara đi thẳng tới Nhà Tạm và trân trọng cầm lấy Bình Thánh. Thánh nữ giơ cao Bình Thánh và từ từ ra khỏi nhà nguyện, vừa đi vừa cất hát Thánh Vịnh. Các nữ tu khác theo sau. Ra tới cửa, Mẹ Chiara nói với chị trợ sĩ canh cổng: “Mở cửa ra đi con”. Chị canh cổng run rẩy đáp lại: “Nhưng thưa mẹ, họ đang ở ngoài kìa! Mẹ không nghe tiếng họ la hét sao?” Mẹ Chiara điềm tĩnh lập lại: “Mở cửa ra đi con” – “Không được đâu mẹ ơi! Họ sẽ tức tốc đột nhập vào nhà!”. Lần này, mẹ Chiara dùng quyền bề trên nói: “Mở cửa ra. Đây là lệnh truyền, con phải tuân phục!” Chị canh cổng vừa mở cửa vừa run. Các Nữ Tu Kín khác vội vàng phủ chiếc khăn che mặt và sẵn sàng đối diện với cái chết ..

Khi cánh cửa từ từ mở ra, mẹ Chiara đi hai ba bước ra ngoài, tay giơ cao Bình Thánh đựng Mình Thánh Chúa GIÊSU. Bình Thánh là tấm khăn duy nhất che kín khuôn mặt mẹ. Trong khi đó, đôi mắt mẹ Chiara chỉ dán chặt vào Bình Thánh mà thôi. Dáng điệu mẹ Chiara trông trang nghiêm và đẹp như một thiên thần. Nhưng đối với nhóm quân hồi giáo thì mẹ Chiara lại xuất hiện như một nữ tướng, uy linh và khủng khiếp! Do đó, khi trông thấy cánh cửa vừa hé mở, nhóm hồi giáo reo hò đắc thắng, chạy ùa vào cửa. Nhưng tức khắc họ phải đứng khựng lại. Rồi không hiểu sức thần nào xua đuổi, họ thất kinh hồn vía, vừa la rú, vừa tung nhau bỏ chạy như điên

Thế là mẹ Chiara cùng các chị nhà Kín Clarisses vui mừng vội vàng đóng kín cửa lại, rồi vừa đi vừa hát kinh TE DEUM cảm tạ Thiên Chúa. Các chị đi trong nghiêm trang và trật tự. Mẹ Chiara giải thích:

- Chúa GIÊSU Thánh Thể chiến thắng tất cả. Thánh Thể là sức mạnh của Thiên Đàng và của trần gian, bao lâu trần gian còn cần những trợ giúp. Nhờ công nghiệp vô biên của Mình Máu Thánh Chúa GIÊSU KITÔ, các tín hữu Công Giáo sẽ luôn luôn chiến thắng được kẻ thù! ..

PHÉP LẠ THÁNH THỂ TẠI LỘ ĐỨC
Kể từ cuộc hành hương toàn quốc Pháp đầu tiên vào năm 1888 các cuộc hành hương Lộ Đức nối tiếp đều mang một nét đặc thù. Đó là các cuộc rước kiệu Thánh Thể trọng thể, bày tỏ lòng tôn sùng kính yêu của các tín hữu Công Giáo đối với Chúa GIÊSU KITÔ ẩn mình trong bí tích Thánh Thể.

Thật ra, Đấng Cứu Thế - Chúa GIÊSU KITÔ - không bị dân chúng lãng quên trong lúc họ biểu lộ lòng ngưỡng mộ đối với Hiền Mẫu Ngài, Nữ Vương Rất Thánh MARIA. Thêm vào đó, nếu Từ Mẫu Thiên Quốc làm phép lạ chữa lành bệnh tật phần hồn lẫn phần xác, chính là nhờ quyền năng vô biên của Con Dấu Ái Mẹ, Chúa GIÊSU KITÔ. Xác tín này thật rõ ràng, bởi lẽ, các tín hữu hành hương luôn luôn cảm nhận sự hiện diện trìu mến của Đấng Cứu Độ nơi Hang Đá Lộ Đức tràn đầy phúc lành. Tất cả đều ý thức rằng: Chỉ mình Thiên Chúa là Chủ Tể mọi việc kỳ diệu - qui facit mirabilia solus.

Thế nhưng, năm 1888 là năm đáng ghi nhớ nhất. Nữ Trinh Rất Thánh MARIA tự ẩn mình đi để làm nổi bật nét đẹp uy linh cao cả của Chúa GIÊSU KITÔ, Người Con Chí Thánh ẩn mình trong bí tích Thánh Thể. 18 thế kỷ sau cuộc đời dương thế của Đức GIÊSU KITÔ nơi Thánh Địa, các tín hữu hành hương Lộ Đức như sống lại quang cảnh ghi trong Phúc Âm: Chúa Cứu Thế khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem, hàng ngàn người hiện diện đã lớn tiếng tung hô Hosanna - Vạn Tuế Con Vua Đavít. Và Chúa GIÊSU đi qua, vừa chúc lành đám đông vừa chữa họ khỏi tất cả bệnh hoạn tật nguyền, thể theo ước nguyện thầm kín của từng người thành khẩn kêu cầu cùng Ngài.

Tờ Nhật Ký Lộ Đức - Le Journal de Lourdes, số xuất bản tháng 8 năm 1888 đã tường thuật tỉ mỉ biến cố trọng đại như sau.

Lời kinh Magnificat - Linh hồn con ngợi khen Chúa - là lời kinh có âm vang thật đặc biệt tại Lộ Đức, bởi vì, đó là lời kinh được các tín hữu diễn tả lòng cảm tạ sâu xa về các ân huệ nhận lãnh. Và ngày 21-8-1888, lời kinh Magnificat này mang trọn chiều kích ngợi khen cùng tri ân của đoàn người hành hương. Phải thành thật thú nhận rằng, nếu được phép soi thấu tâm tư kín ẩn của từng người, hẳn chúng ta sẽ đọc được phép lạ Đức Mẹ ban trên bình diện thiêng liêng. Thế nhưng, ngày hôm ấy, Đức Mẹ như giả điếc làm ngơ trước mọi lời khấn cầu của con cái Mẹ, đang lê lết vì các khổ đau phần xác. Không một bệnh nhân nào được Đức Mẹ chữa lành.

Thêm vào đó, ngày đầu tiên của cuộc hành hương toàn quốc Pháp đã kết thúc trong thảm sầu như bầu khí ảm đạm của cả ngày. Vào lúc đoàn tín hữu xếp hàng đôi, tay cầm nến sáng, chuẩn bị cuộc rước đuốc kính Đức Mẹ Lộ Đức, thì hỡi ôi, trời bỗng lên cơn giông tố bão bùng, mưa đổ như trút nước. Mọi người nhanh nhân tìm chỗ trú ẩn .. Đâu ai ngờ rằng, thử thách này tiên báo ngày mai tươi sáng hơn, không xóa mờ trong tâm trí.

Chứng kiến cảnh tượng buồn thương của các tín hữu hành hương - tuy vẫn giữ vững lòng tin cậy mến -, Trời Cao đã gợi ý cho một linh mục thánh thiện. Cha thầm nghĩ: “Tại sao không tổ chức một buổi rước kiệu Mình Thánh Chúa, mang Chúa GIÊSU Thánh Thể đi qua giữa đoàn bệnh nhân? Tại sao không khuyến khích các tín hữu dâng lên Chúa GIÊSU Thánh Thể lời tung hô đi kèm lời khẩn cầu chữa lành bệnh tật phần xác, y như khi Chúa GIÊSU còn sống nơi dương thế?”

Lời đề nghị của vị linh mục thánh thiện được Cha Picard hân hoan tiếp nhận. Cha tức khắc thu thập những câu chúc tụng, các lời van xin ghi trong Phúc Âm rồi in trên một tờ giấy khổ nhỏ và phân phát cho các tín hữu hành hương. Đúng 4 giờ chiều ngày 22-8-1888, Mình Thánh Chúa GIÊSU được long trọng rước ra từ Đền Thánh, đi giữa đoàn tín hữu hành hương tay cầm nến sáng. Sau khi đoàn rước đi qua Hang Đá Đức Mẹ Lộ Đức, các lời khẩn cầu bắt đầu vang lên với trọn nhiệt tâm, nhiệt huyết, không thể nào diễn tả cho hết.

Khi đầu đoàn rước tiến ra bờ sông Gave, mọi người hiện diện cùng có chung một tư tưởng: “Lộ Đức không còn là Lộ Đức mà là thành Giêrusalem thời Chúa GIÊSU KITÔ. Chúa Cứu Thế đang xuất hiện sống động và khải hoàn với những công trình kỳ diệu .. Suốt đời, tôi sẽ không bao giờ quên tiếng kêu, quên đám đông cùng với các lời khẩn thiết hòa lẫn nước mắt chan hòa tuôn rơi”.

Một luồng gió thánh linh đầy phấn khởi thổi trên đầu mọi tín hữu hiện diện. Từ trên các băng-ca, các chiếc giường, các xe lăn, những bệnh nhân đang đau đớn nơi thể xác, đồng thanh van xin. Hòa nhịp với lời cầu thống thiết, toàn thể các tín hữu hành hương cũng cất tiếng kêu xin, lập lại lời của người bất toại và người mù thành Giêricô thưa cùng Chúa GIÊSU rằng: “Lạy Chúa, nếu Ngài muốn, xin Ngài chữa con lành bệnh!”

Ngay lúc ấy, trước Hang Đá Đức Mẹ, ở giữa đám đông, ở giữa tình thương trìu mến, ở giữa những gì thâm sâu nhất, cao cả nhất trong tâm hồn con người, trước mặt Con Thiên Chúa phúc lành, trước sự chứng kiến của toàn dân nước Pháp, 8 người bệnh nằm liệt giường được chữa khỏi và đứng thẳng lên: “Surge, tolle grabatum tuum et ambula - Hãy đứng dậy, vác giường mà về nhà đi!”, Mát-thêu, chương 9 câu 6.

Làm sao diễn tả cho hết quang cảnh cảm động trên đây? Khi lời kinh Magnificat long trọng cất lên, vang dội và chiến thắng, không ai cầm được nước mắt cảm tạ và tri ân.

Người ta dễ dàng tưởng tượng ra quang cảnh đầy phấn khởi của buổi lễ cử hành ngay đêm hôm ấy. Cuộc rước đuốc diễn ra trong vòng hai tiếng đồng hồ, làm sáng rực toàn khu vực Trung Tâm Thánh Mẫu Lộ Đức: từ Hang Đá cho đến Đền Thánh và mọi lối đi dọc theo bờ sông Gave. Sau khi hát Kinh Tin Kính, đoàn tín hữu hành hương vang lên những lời chúc tụng như: Vạn tuế Chúa GIÊSU KITÔ! Vua Chiến Thắng! Vạn Tuế Đức Bà Lộ Đức! Hoan hô Đức Thánh Cha Lêô 13!

Sáng hôm sau 23-8-1888, muôn người như một, chỉ mở miệng để nói về cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa và biến cố xảy ra vào buổi chiều hôm trước. Vì thế, mỗi người tự nguyện sẽ tham dự cuộc kiệu Mình Thánh Chúa vào lúc 4 giờ chiều hôm ấy. Nói thế để hiểu rằng, toàn khu vực Trung Tâm Thánh Mẫu Lộ Đức đông chật tín hữu hành hương. Hàng trăm bệnh nhân nằm trên cáng được khiên ra đặt trên lối đi.

Khi Chúa GIÊSU Thánh Thể xuất hiện, tức khắc tái diễn quang cảnh xảy ra vào buổi chiều hôm trước. Hay nói đúng hơn, mọi tâm hồn như sốt sắng hơn, cảm động hơn và phấn khởi tươi vui hơn. Mọi người cất tiếng hát, đọc kinh và kêu cầu với những lời ghi trong Phúc Âm: “Lạy Chúa GIÊSU, xin thương chữa lành chúng con! Lạy Chúa GIÊSU, kẻ Thầy yêu đang ốm nặng!” Người đau bệnh cũng như kẻ lành mạnh, tất cả đều giơ tay khẩn thiết hướng về phía Mình Thánh Chúa.

Thế là, Chúa GIÊSU Thánh Thể Lộ Đức liền ra tay ban phúc lành, đáp trả lời kêu cầu của mọi người thiện tâm. Một chủng sinh bị bệnh đang ở giai đoạn cuối đời, liền đứng thẳng lên khỏi chiếc cáng đang nằm, và mạnh dạn tiến bước theo sau chiếc kiệu Mình Thánh Chúa. Rồi một bệnh nhân thứ hai và một bệnh nhân thứ ba, cũng đứng lên hân hoan bước theo sau Chúa GIÊSU Thánh Thể.

Các nhân viên khiêng cáng phải khó nhọc lắm mới giữ được các bệnh nhân nằm im. Mọi người như cuốn hút vào bầu khí hân hoan phúc lành, cảm tạ và tri ân. Khi ba người khỏi bệnh tiến gần đến Hang Đá Lộ Đức giữa tiếng vỗ tay vang dội, thì những vụ khỏi bệnh khác được tiếp diễn. Một người, hai người, rồi nhiều người được lành mạnh, đứng thẳng lên và vui tươi nhập bọn với anh chị em khác.

Ôi, diễn tả sao cho cùng những tâm tình kín ẩn của mọi người hiện diện lúc ấy. Không ai bảo ai, tất cả đồng thanh cất tiếng tung hô: “Hosanna - Vạn tuế Con Vua Đavít! Chúc tụng Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến!”

Kể từ sau biến cố trọng đại ấy, hàng năm khi diễn ra các cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa nơi Hang Đá Lộ Đức, các tín hữu hành hương như cảm thấy lòng mình tràn ngập lòng tin/cậy/mến đối với Mình Thánh Chúa GIÊSU và không ngớt lời chúc tụng ngợi khen. Và Chúa GIÊSU Thánh Thể cũng rộng tay ban phát các ơn lành hồn xác cho tất cả những ai cầu khẩn Ngài với trọn lòng tin/cậy/mến.


PHÉP LẠ THÁNH THỂ TẠI PERPIGNAN

Ngày 15-9-1793, trong tuần bát nhật lễ Sinh nhật Đức Mẹ, ngôi làng bé nhỏ Pézilla-de-la-Rivière, thuộc giáo phận Perpignan, miền Nam nước Pháp, đã vui mừng trông thấy thánh đường được mở cửa. Lý do là vì cuộc cách mạng 1789 vẫn còn ghi đậm nét kinh hoàng. Các Linh Mục, Giám Mục, Hồng Y - những vị trung thành với Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ - bị bắt, bị giết hoặc bị lưu đày. Đoàn chiên vắng bóng chủ chăn, bơ vơ tang tác thật tội nghiệp thảm thương.

Linh Mục Jacques Pérone, cha sở họ đạo, từ nơi trú ẩn, can đảm trở về giáo xứ. Cha muốn lợi dụng trong chớp nhoáng khoảng thời gian yên tĩnh để mang lại cho đoàn chiên niềm an ủi được tham dự thánh lễ. Được mật báo, toàn thể tín hữu có mặt nơi nhà thờ. Mọi người vừa sốt sắng vừa trang nghiêm. Không thể diễn tả hết lòng hân hoan của bổn đạo. Nhưng niềm vui chỉ diễn ra vỏn vẹn 3 hôm. Ngày 17-9-1793, với con tim đau thắt, cha Jacques Pérone đành lên đường trở về nơi lưu đày tận bên nước Tây-Ban-Nha. Trước khi khuất hẳn, cha đau đớn quay lại nhìn giáo xứ thân yêu lần cuối. Đôi mắt đẫm lệ, cha buột miệng kêu lên: “Ôi, nếu có thể, thì không gì mà tôi không đánh đổi để chỉ trở lại đó một khắc đồng hồ thôi!”

Lời thì thào của cha Jacques Pérone đã lọt tai một thiếu nữ can đảm, đạo đức và khiêm tốn. Đó là cô Rose Llorens. Cô thầm đoán Bánh Thánh còn bị bỏ quên trong Nhà Tạm ở nhà thờ. Với lòng tin tưởng vững vàng nơi sự trợ giúp của Thiên Chúa, cô cương quyết tự nguyện sẽ giải thoát Chúa GIÊSU Thánh Thể khỏi các bàn tay xúc phạm của quân cách mạng vô luân vô thần.

.. Ngày 26-12-1793 ông Jean Bonafos về nhậm chức tân thị trưởng Pézilla. Ông là kẻ hiền đức và là người kính sợ Thiên Chúa. Thấy cơ hội thuận tiện, cô Rose trình bày ước nguyện với tân thị trưởng. Ông Jean Bonafos tức khắc chấp thuận. Ngày 7-2-1794, cùng với một người thứ ba, ông thị trưởng và cô Rose đến nhà thờ. Ông thị trưởng tự tay mở cửa Nhà Tạm. Quả thật, ông trông thấy Bánh Thánh lớn nằm trong Mặt Nhật và 3 Bánh Thánh nhỏ còn nguyên với Bánh Thánh thứ tư bẻ đôi. Cả 4 Bánh Thánh nhỏ đặt trong Bình Thánh. Với đức tính cẩn trọng, ông Jean Bonafos lấy 4 Bánh Thánh nhỏ bỏ vào Khăn Thánh rồi ông đưa tất cả cho cô Rose cùng với mặt nhật có Bánh Thánh lớn.

Cô Rose Llorens trao mặt nhật với Bánh Thánh lớn tận tay bà Thomase, phu nhân thị trưởng. Chính ông thị trưởng Jean Bonafos đặt mặt nhật có Bánh Thánh vào rương bằng gỗ rồi dấu kín trong nhà. Mình Thánh Chúa GIÊSU ở tại nơi trú ẩn khiêm tốn này gần trọn 7 năm, tức từ 7-2-1794 đến 9-12-1800. Chúa GIÊSU KITÔ không bị lãng quên. Cả hai vợ chồng ông thị trưởng luôn luôn dâng kính Chúa GIÊSU Thánh Thể lòng tôn thờ yêu mến thâm sâu.

Trong khi đó cô Rose trao 4 Bánh Thánh nhỏ cho thân mẫu là bà Anne-Marie Llorens Estéva. Theo lời khuyên của mẹ Joséphine de Romanya, Bề Trên tu viện Chúa Cứu Thế ở Perpignan, bà Anne-Marie đặt 4 Bánh Thánh trong một bình bằng thủy tinh, hoàn toàn trắng, rồi bọc kín với chiếc bị nhỏ bằng tơ lụa màu đỏ. Xong, bà đặt vào một ngăn tủ nhỏ dấu kín trong tường.

Nếu vì lý do cẩn trọng, gia đình ông thị trưởng Bonafos không thể tiếp rước nhiều người đến tôn thờ Chúa GIÊSU Thánh Thể, thì trái lại, gia đình cô Rose Llorens mở rộng cửa cho mọi người. Các tín hữu Công Giáo đạo đức, kín đáo đến thờ lạy Chúa GIÊSU KITÔ đang ẩn mình trong Bánh Thánh. Sau này, các giáo dân cao niên trong xứ đạo kể lại rằng, họ thường đem các trẻ em đến nhà cô Rose. Họ bảo chúng quì trước ngăn tủ có dấu Mình Thánh Chúa và dạy chúng cầu nguyện. Hàng năm đến ngày Thứ Năm Tuần Thánh giáo dân trong làng thường dựng một bàn thờ trước ngăn tủ và trang hoàng hoa tươi thật đẹp. Rồi họ cùng nhau quì im lặng chầu Mình Thánh Chúa.

.. Cuối năm 1800 là thời điểm đáng ghi nhớ đối với dân làng Pézilla-de-la-Rivière: chấm dứt những ngày bị bách hại tang tóc và cuộc rước khải hoàn Chúa GIÊSU Thánh Thể trở về ngôi thánh đường thân yêu.

Ngày 5-12-1800 cha phó Honoré Siuroles từ nơi trú ẩn trở về trước, đã đến nhà bà Anne Llorens. Cha trang trọng mở ngăn tủ nhỏ để lấy ra Bình Thánh bằng thủy tinh đựng 4 Bánh Thánh. Chính lúc này đây, cha phó vô cùng ngạc nhiên khi trông thấy 4 Bánh Thánh vẫn giữ nguyên nét trắng tinh toàn vẹn và Bình Thánh bằng thủy tinh lại được mạ vàng! Mạ vàng ngay bên trong lớp thủy tinh! Phép lạ trong phép lạ!

4 ngày sau, đến phiên cha sở Jacques Pérone trở về. Cha đến nhà ông thị trưởng Jean Bonafos lấy Bánh Thánh lớn và long trọng rước về thánh đường. Thật là một đại lễ cho toàn thể giáo xứ Pézilla-de-la-Rivière. Cha sở đặt Bánh Thánh lớn và 4 Bánh Thánh nhỏ vào trong Bình Thánh mới và để vào Nhà Tạm nơi bàn thờ chính. Gần một thế kỷ sau, tức năm 1875, khi thay Bình Thánh mới và đặt ra bên ngoài cho các tín hữu Công Giáo đến thờ lạy và kính viếng, giáo quyền lại một lần nữa có dịp ghi nhận rằng, các Bánh Thánh vẫn được bảo tồn nguyên vẹn, y như lúc được cất vào Nhà Tạm ngày 15-9-1793.

(P. Eugène COUET, “Les Miracles Historiques du Saint Sacrement”, Éditions D.F.T, Réédition 1998, trang 226-230 / 150-161).


SÙNG KÍNH ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM VÀ THÁNH THỂ CHÚA GIÊSU


Chiều 30-5-1862, ngày áp chót tháng Hoa kính Đức Mẹ, sau Kinh Tối, thánh Gioan Bosco (1815-1888) nói với các linh mục của ngài như sau:

Tôi muốn kể anh em nghe giấc mơ tôi thấy cách đây vài hôm. Anh em cứ tưởng tượng chúng ta đứng trên mỏm đá nằm trơ trọi giữa biển cả bao la. Anh em không trông thấy đất liền, ngoài mảnh đất nhỏ bé nằm dưới chân. Trên biển cả mênh mông, anh em trông thấy vô số tàu chiến. Mũi tầu giống như chiếc mỏ bằng sắt, bén như lưỡi dao, có thể đâm thủng và cắt đứt những vật nó chạm tới. Tàu trang bị đủ mọi thứ khí giới và các chất nổ gây hỏa hoạn. Tất cả các tàu chiến cùng tiến đánh một chiếc tàu trông thật quan trọng và vĩ đại hơn mọi chiếc tàu trong trận chiến. Chúng hùng hổ xông vào chiếc tàu lớn, đánh phá tứ tung, cố gắng gây thương tổn và hủy hoại càng nhiều càng tốt. Trong khi đó chiếc tàu lớn được một số thuyền và ghe buồm hộ tống. Các ghe thuyền nhận lệnh từ chiếc tàu lớn và thi hành chỉ thị, làm sao để có thể ứng phó với vô số tàu địch đang tấn công tứ phía. Thêm vào đó, gió thổi thật mạnh, khiến biển cả giao động kinh hoàng, gần như gây thuận lợi cho đối phương.

Bỗng nhiên từ giữa trận chiến nơi biển cả mênh mông, xuất hiện hai chiếc cột cao lớn, đặt gần nhau. Trên một chiếc cột có tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm. Dưới chân bức tượng là tấm bảng mang hàng chữ: “Phù Hộ các Giáo Hữu” Trên chiếc cột thứ hai, cao hơn và vĩ đại hơn, có Mặt Nhật Mình Thánh Chúa. Dưới chân Mặt Nhật cũng có tấm bảng mang hàng chữ: “Cứu Độ các Tín Hữu” .

Vị thuyền trưởng tối cao trên chiếc tàu lớn chính là Đức Giáo Hoàng, thủ lãnh Giáo Hội Công Giáo Roma. Đứng trên tàu, Đức Thánh Cha chứng kiến cái hung hãn của địch thù cũng như hiểm nguy của các tín hữu. Trận chiến mỗi lúc càng trở nên khốc liệt. Đức Thánh Cha cố gắng lèo lái chiếc thuyền tiến lên đứng giữa hai chiếc cột lớn. Thấy thế, các chiếc tàu địch khác lại dồn toàn lực để tấn công và ngăn cản không cho chiếc tàu lớn của Đức Thánh Cha di chuyển. Tuy nhiên, dù dùng đủ mọi mánh lới cộng với đủ mọi thứ khí giới, các chiếc tàu địch vẫn không phá hủy và ngăn cản được chiếc tàu lớn. Trái lại, chiếc tàu lớn từ từ tiến lên một cách vững chắc và an toàn, hướng về hai chiếc cột trên đó có tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm và Mặt Nhật Mình Thánh Chúa GIÊSU. Dĩ nhiên chiếc tàu lớn cũng bị bắn phá, nhưng không có thiệt hại nào đáng kể. Trong khi các tàu địch bị hư hại nặng nề. Có nhiều tàu bị vỡ tung và chìm sâu dưới lòng đại dương. Các địch thù đùng đùng nổi giận. Họ dùng gươm giáo đâm thủng loạn xạ, kèm theo những lời lộng ngôn và chửi rủa thậm tệ.

Đang hồi chiến đấu dữ dội Đức Giáo Hoàng bị thương, ngã quỵ xuống. Những người chiến đấu với ngài vội chạy đến, đỡ ngài lên. Nhưng ngài lại ngã xuống và tắt thở. Tức khắc một vị giáo hoàng khác được bầu lên thay thế, lèo lái chiếc tàu. Cuộc bầu cử nhanh chóng đến độ hung tín Đức Giáo Hoàng qua đời được loan đi cùng lúc với tên vị tân Giáo Hoàng kế vị. Điều này làm cho các địch thủ chán nản và mất hết nhiệt khí để chiến đấu.

Vị tân Giáo hoàng dẹp bỏ và vượt qua được hết mọi cản trở. Ngài lái chiếc tàu tiến thẳng đến hai cột trụ và len vào giữa. Ngài dùng dây xích ở đầu tàu cột vào chân trụ có Mặt Nhật Mình Thánh Chúa GIÊSU. Sau đó ngài lấy dây xích thứ hai ở đuôi tàu và cột vào trụ có bức tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm. Thế là diễn ra cảnh tượng vô cùng hỗn độn. Tất cả các chiếc tàu địch tìm đường chạy trốn. Trong cảnh hỗn độn ấy, chính các tàu địch lại đụng vào nhau, phá hoại nhau, khiến cho các tàu địch bị bể và chìm sâu xuống biển.

Kể đến đây, thánh Gioan Bosco ngừng lại nhìn cha Michele Rua (1837-1910) và hỏi: “Cha nghĩ thế nào về giấc mơ tôi vừa kể?”. Cha Michele Rua đáp: “Theo thiển ý con, Hai chiếc cột cứu thoát chính là hình ảnh của lòng sùng kính Đức MARIA Vô Nhiễm và Thánh Thể Chúa GIÊSU KITÔ” . Thánh Gioan Bosco đáp: “Đúng. Cha trả lời thật đúng. Các tàu chiến địch thù tức là các cuộc bách hại. Sẽ có những thử thách lớn lao cho Giáo Hội Công Giáo. Nhưng có phương thế duy nhất để cứu Giáo Hội khỏi mọi hiểm nguy. Đó là việc sùng kính Đức MARIA Vô Nhiễm và siêng năng xưng tội cùng rước Mình Thánh Chúa” .

(“LE CHRIST AU MONDE”, 10/1991, trang 330-331).

CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ VÀ DÂN PAPOUASIE


Dòng Thừa Sai Thánh Tâm Chúa GIÊSU và Mẹ MARIA là hội dòng của cha Damien de Veuster (1840-1889) , vị linh mục tông đồ người cùi. Cha có tên thật là Joseph de Veuster và đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolo 2 tôn phong chân phước ngày Chúa Nhật 5-6-1995 tại thủ đô Bruxelles của vương quốc Bỉ.

Dòng Thừa Sai Thánh Tâm có nhà Mẹ tại đường Picpus của thủ đô Paris và hoạt động tại nhiều nước trên thế giới. Sau đây là chứng từ của cha Eugène Sourisseau, Thừa Sai Thánh Tâm, về lòng yêu mến Thánh Thể của trẻ em và của người dân Papouasie, thuộc Thái Bình Dương. Cha viết:

Đầu năm 1992, tôi bắt đầu đi một vòng thăm viếng các bộ lạc ở Oro, Siguf, Tafad, nằm trong thung lũng Odab. Chúng tôi đến giáo xứ lớn Onongé.

Vào một buổi sáng thứ hai, tôi rời Siguf và tiến về Oro. Tôi dự định ở lại đây một tuần để viếng thăm và ban các bí tích cho các tín hữu. Làng Oro có 400 dân, trong đó 82 người trẻ được cắp sách đến trường. Trong số các người trẻ có 16 trẻ trai và trẻ gái cộng thêm với một vài người lớn, đang chuẩn bị rước lễ lần đầu.

Buổi sáng hôm ấy - vai mang bị hành lý - tôi tiến về Oro, lần theo những con đường làng đầy cỏ và ướt át. Đang đi, bỗng cậu bé Adigai Vénansio xuất hiện. Cậu bé vui mừng chạy đến bên tôi và nói: “Cha đưa bị của cha cho con mang”. Thế là cả hai chúng tôi cùng vui vẻ tiến về Oro. Chẳng bao lâu sau, một nhóm 6-7 trẻ đi học ở Oro lại nhập bọn với chúng tôi. Chúng tôi hăng hái tiến bước.

Vừa đi tôi vừa hỏi: “Này Vénansio, Chúa nhật tới con sẽ được rước lễ lần đầu. Được rước lễ lần đầu rồi, sẽ có gì đổi khác nơi con không?” . Đang đi, Vénansio bỗng đứng hẳn lại. Cậu bé đăm đăm nhìn tôi rồi trả lời: “Thưa cha, Chúa GIÊSU và con, chúng con sẽ trở thành MỘT”.

Câu trả lời của cậu bé Adigai Vénansio làm tôi cảm động và vui mừng. Không ngờ cậu bé nhà quê đơn sơ chất phác đã hiểu đúng ý nghĩa của bí tích Thánh Thể và tầm quan trọng của việc rước lễ lần đầu. Chúng tôi linh mục, những thừa tác thánh cử hành bí tích Thánh Thể mỗi ngày. Chúng tôi dâng Mình và Máu Thánh Chúa GIÊSU cho Thiên Chúa Cha để cầu xin ơn cứu độ cho toàn thế giới. Chính chúng tôi là những người đầu tiên phải sống linh đạo mà bé Adigai Vénansio đã tìm ra, thật giản dị, nhưng vô cùng sâu xa: Chúa GIÊSU và con, chúng con là MỘT.

Câu nói của cậu bé Adigai Vénansio cũng gói trọn tâm tình đạo đức của người dân Papouasie đối với bí tích Thánh Thể. Trong cuộc đời truyền giáo tại Papouasie, tôi kinh nghiệm rằng: lòng sùng kính Thánh Thể Chúa GIÊSU là phương thế tuyệt hảo nhất để tăng cường lòng tin.

Chúa GIÊSU và con, chúng con là MỘT: Một khi đã sống đúng chân lý này, người tín hữu sẽ thường xuyên đến viếng thăm Chúa GIÊSU, ẩn mình trong Thánh Thể, ngự trong Nhà Tạm. Sự hiện diện thật sự của Chúa GIÊSU trong Bí Tích Thánh Thể là suối nguồn tình yêu và ơn thánh, có sức mạnh biến đổi tâm lòng con người. Đó cũng là lý do thúc đẩy các tín hữu Công Giáo, sống trong những vùng núi xa xôi hẻo lánh, đã đi bộ suốt 4-5 ngày - vừa đi vừa về - để có thể tham dự một thánh lễ và lãnh nhận bí tích Giải Tội.

Có những làng không có linh mục thường xuyên đến dâng thánh lễ và ban bí tích Giải Tội, nhưng ít nhất là các tín hữu biết cất giữ Mình Thánh Chúa để thăm viếng, thờ lạy và lãnh nhận vào mỗi Chúa Nhật, khi họ tụ họp nhau để cử hành Phụng Vụ Lời Chúa.

“Thật, Thầy bảo thật anh em: Nếu anh em không ăn Thịt và uống Máu Con Người, anh em không có sự sống nơi mình. Ai ăn Thịt và uống Máu Thầy, thì được sống muôn đời, và Thầy sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì Thịt Thầy thật là của ăn, và Máu Thầy thật là của uống. Ai ăn Thịt và uống Máu Thầy, thì ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy” (Gioan 6,52-56).

( “Annales d'Issoudun”, Juin/1995, trang 205-206)

BÍ TÍCH THÁNH THỂ



... Lạy Chúa GIÊSU đang ngự thật trong Bí Tích Thánh Thể vì yêu con .. con xin vĩnh viễn dâng hiến Chúa trọn người con. Con xin từ khước tất cả những gì thuộc quyền con, để làm lễ tế dâng lên Chúa hầu Chúa trở thành Đấng duy nhất ngự trong con, nguyên lý tuyệt đối cuộc đời con. Xin Chúa điều khiển mọi hoạt động của con. Không còn gì cũng chẳng có gì thuộc về con, ôi Chúa GIÊSU dấu ái của con! Xin Chúa ngự vào lòng con, linh hồn con và chữa con khỏi bệnh hoạn tật nguyền ..

Đó là lời thề anh Giovanni Nadiani (1885-1940) dâng lên Chúa GIÊSU Thánh Thể khi gia nhập dòng Thánh Thể. Anh bắt đầu Năm Tập thứ nhất tại Castelvecchio di Moncalieri, tỉnh Torino (Bắc Ý) năm 22 tuổi. Anh quyết định chọn dòng Thánh Thể vì được hồng ân Chúa GIÊSU Thánh Thể lôi cuốn vào Tình Yêu vô biên của Ngài. Lời mời gọi của các tu sĩ Thánh Thể do thánh Pierre Julien Eymard (1834-1868) sáng lập cũng thu hút anh: “Nếu Chúa GIÊSU sống động và ngự thật trên bàn thờ cũng như trong Nhà Tạm, nếu Ngài là tất cả, thì sao bạn lại muốn tìm kiếm nơi khác? Hãy đến với Ngài và bạn sẽ tìm thấy tất cả!”

Nơi Tập Viện thầy Giovanni được giao nhiệm vụ coi nhà Mặc Áo (Phòng Thánh). Thầy tận tâm chu toàn công việc và rất sung sướng vì được dịp ở gần Chúa GIÊSU Thánh Thể, Đấng ngự trong Nhà Tạm. Ngày 7-11-1909 thầy Giovanni bắt đầu tuần tĩnh tâm chuẩn bị tuyên khấn. Thầy hân hoan với ý nghĩ rồi đây mình sẽ thuộc trọn về Chúa GIÊSU KITÔ. Trong đơn xin tuyên khấn gửi lên Cha Bề Trên Cả, thầy Giovanni Nadiani viết: Con vui mừng biết bao! Con phấn khởi với ơn gọi thiên thần của con! Con nồng nhiệt ước muốn làm cho mọi người biết đến Chúa GIÊSU, Chúa GIÊSU Thánh Thể dấu ái của lòng con! Nếu Chúa muốn con trở thành Linh Mục, thì ngay khi vừa lãnh chức phó tế, con sẽ chạy như bay qua các thành thị. Con sẽ giơ cao Mặt Nhật Mình Thánh Chúa, để mọi người trông thấy Chúa GIÊSU Thánh Thể và con sẽ nói với họ: ”Đây là Ngôi Lời của Thiên Chúa trở thành Bánh Thánh nuôi sống! Đây là Tình Yêu! Đây là Tình Yêu! .. Thế nhưng Chúa muốn con phụng sự Người trong chức vụ tu huynh, và chính lòng con cũng ao ước như thế ..”

Sau khi tuyên khấn, thầy Giovanni chu toàn các công tác khiêm tốn như: lo nhà Mặc Áo, y tá, giúp văn phòng báo chí của dòng và quét dọn nhà cửa. Qua bất cứ công việc nào, dù nhỏ mọn đến đâu, thầy Giovanni cũng chỉ có một mục đích duy nhất. Thầy không ngừng lập đi lập lại: “Cuộc đời tôi là để cầu nguyện. Bất cứ lúc nào, nếu có ai hỏi tôi đang làm gì, thì tôi chỉ trả lời: tôi đang thờ lạy Chúa GIÊSU KITÔ ..”

Chúa GIÊSU Thánh Thể gồm trọn lý tưởng sống cuộc đời thầy Giovanni. Thầy ghi trong nhật ký: “Chúa GIÊSU Thánh Thể là Đấng chỉ đạo, là nhiệt huyết, là mặt trời, là tình yêu, là sự thiện và là tất cả cuộc đời tôi”. Như thế, dầu không phải nhà giảng thuyết hùng hồn hoặc nhà truyền giáo nổi danh, thầy Giovanni vẫn có thể trở thành vị đại tông đồ của Chúa GIÊSU. Bởi vì, qua thầy, Chúa GIÊSU trở thành mặt trời soi chiếu đường đi cho vô số anh chị em đồng loại. Thầy giống như Mặt Nhật Mình Thánh Chúa, không nói, cũng chẳng hề áp đặt điều gì cho ai, nhưng để trưng bày và chiếu sáng Chúa GIÊSU KITÔ trước mặt mọi người.

Tháng 8 năm 1914 đệ nhất thế chiến bùng nổ với chiến tranh khai mào giữa hai nước Áo và Serbi. Tháng 5 năm 1915, nước Ý nhảy vào vòng chiến. Thầy Giovanni tha thiết cầu nguyện xin Chúa ban ơn Hòa Bình cho thế giới. Thế nhưng, khi nhận lệnh nhập ngũ, thầy mau mắn tuân hành. Thầy hy sinh cởi bỏ “tu phục” để khoác lên mình “chiến y”. Chỉ có điều đặc biệt, thầy để bộ râu ra rậm và dài, chứng tỏ cho mọi người thấy thầy là tu sĩ mang quân phục!

Nơi chiến trường thầy Giovanni Nadiani anh dũng phục vụ. Thầy xung phong đi hàng đầu trong các trận đánh khốc liệt. Thầy cũng xin cấp trên cho phép mang Mình Thánh Chúa đến các binh sĩ bị trọng thương. Năm 1919, thế chiến chấm dứt, thầy Giovanni sung sướng trở về tu viện. Thầy tiếp tục yêu mến Chúa GIÊSU Thánh Thể và Mẹ MARIA cho đến khi qua đời ngày 6-1-1940, sau 33 năm sống tinh thần “Nhà Tiệc Ly”, nếm trước niềm vui Thiên Quốc!

(Paolo Risso, “GIOVANNI NADIANI”, Editrice Elle Di Ci, 1995).



Ông Casimir và bà Anna là hai hội viên hết lòng với đảng cs vô thần Ba Lan. Ông bà chỉ có duy nhất đứa con gái tên Têrêxa, 11 tuổi. Cô bé trông thật xinh xắn mỹ miều. Nhưng bên trong cái nét duyên dáng ấy, lại ẩn chứa một ý chí sắt đá, cương quyết thực hiện cho bằng được điều mình muốn. Và điều cô bé ước muốn: cùng với các bạn gái đồng lứa tuổi chuẩn bị rước lễ lần đầu.

Sau nhiều ngày do dự, Têrêxa thu hết can đảm tỏ bày cùng cha mẹ. Vừa khi hiểu ý con gái, ông bà cảm thấy như đất rung trời sập! Sự nghiệp với đảng bỗng một sớm một chiều tan ra mây khói! Do đó, ông bà dứt khoát trả lời KHÔNG. Trăm lần KHÔNG. KHÔNG có chuyện xưng tội với rước lễ lần đầu! Bởi vì, nếu Têrêxa trở thành tín hữu Công Giáo, tức là ông bà phản bội chủ thuyết vô thần của đảng!

Lúc này đây Têrêxa biết phải làm gì. Cô bé nghĩ ra diệu kế: TUYỆT THỰC. Cô bé vào phòng riêng, lên giường, trùm kín chăn lại. Mặc cho mẹ dỗ ngon dỗ ngọt, Têrêxa vẫn không thay đổi, bao lâu cha mẹ không chấp nhận cho mình rước lễ lần đầu.

Cuộc tuyệt thực chuyển sang ngày thứ ba thì tình hình bỗng trở nên nghiêm trọng. Têrêxa yếu hẳn, giống như người sắp chết. Hai ông bà vô cùng lo lắng. Trong khi đó, Têrêxa đói vô cùng. Cô bé chống đói bằng những ly nước lã và không ngừng lần hạt Mân Côi. Cứ sau một tràng chuỗi, cô bé thêm phần kinh riêng của mình: “Thánh MARIA Đức Mẹ Chúa Trời .. xin cho Ba Má con nhượng bộ gấp, đầu hàng trước, nếu không, chắc chắn con sẽ chết vì đói. Thật ra, con đâu có muốn chết! Tuy nhiên, nếu cần, con sẵn sàng chết, chứ không đổi ý. Vậy xin Đức Mẹ cầu bầu cho con trong giờ lâm tử, nếu con bị bắt buộc phải chết. Nhưng con thích cầu xin Đức Mẹ thay đổi tâm lòng Ba Má con hơn. Con yêu Mẹ nhiều, Người Mẹ Thiên Quốc của con và con hết lòng tin tưởng nơi Mẹ!”

Cầu nguyện xong, Têrêxa trông thấy cánh cửa từ từ hé mở, rồi cả Má lẫn Ba bước vào. Ông Casimir âu yếm hỏi con: “Cưng của Ba, con cảm thấy như thế nào?” Bà Anna ranh mãnh hơn, đánh đúng tâm lý cô bé: “Con không đói sao? Cưng của mẹ?” Têrêxa bật khóc nức nở: “Con đói lắm chứ! Con có thể ăn hết một đĩa bột bắp, ngay lúc này đây, vì con quá đói! Con cũng có thể ăn khoai sống, dưa thối, hoặc bất cứ thức ăn nào người ta vứt đi, bởi vì con quá đói .. Nhưng con nói KHÔNG là KHÔNG. Con đói nhưng con không ăn gì cả. Và Ba Má sẽ chứng kiến cảnh con chết vì đói. Rồi Ba Má sẽ viết trên mộ con: 'Chết vì đói, vì lỗi của Ba Má'. Đúng thật là lỗi của Ba Má vì Ba Má cương quyết không chấp nhận cho con được rước Chúa GIÊSU Thánh Thể!”

Ông bà kinh ngạc nhìn nhau. Đây là lần đầu tiên cô bé thú nhận mình đói. Ông Casimir lợi dụng ngay tình thế. Ông nói: “Con à, Ba Má chỉ muốn điều tốt điều lành cho con. Sao con cứ nằng nặc đòi ăn cho bằng được một tấm Bánh Trắng nhỏ xíu? Nó có là gì đâu! Con ăn rồi cũng giống như chưa ăn. Chỉ có điều khác: nếu con ăn Miếng Bánh này, sự nghiệp Ba Má sẽ tiêu tan. Đảng sẽ loại trừ Ba Má. Vậy con không yêu Ba Má sao? Giờ đây Ba thấy rõ con không yêu Ba Má chút nào hết!”

Têrêxa im lặng nghe Ba nói. Bỗng cô bé ngồi bật dậy, nước mắt dàn dụa: “Ba Má nghĩ con không yêu Ba Má thật hay sao? Sở dĩ con tuyệt thực là vì con yêu Ba Má. Không phải lỗi con, nếu Ba Má không tin nơi Thiên Chúa. Phần con, con tin nơi Thiên Chúa và con tin cho tới chết. Và nếu con không được rước Chúa GIÊSU thật, con cũng có thể rước Chúa cách thiêng liêng bằng lòng ao ước. Và khi con chết rồi, trên Thiên Đàng, con sẽ cầu nguyện thật nhiều cho Ba Má!”

Không chịu thua, bà mẹ nghĩ ra chiến thuật khác. Bà nói với con: “Con tỏ ra thông thạo giáo lý Công Giáo. Con không biết đạo Công Giáo dạy phải vâng lời cha mẹ sao?” Suy nghĩ một chút Têrêxa lý luận: “Phải, con phải vâng lời cha mẹ, nhưng chỉ vâng lời trong điều thiện. Nếu cha mẹ truyền làm điếu xấu thì con cái có quyền không vâng lời. Đây là trường hợp của con. Điều Ba Má dạy con là xấu, vì Ba Má ngăn cản không cho con được rước Chúa GIÊSU. Vì thế, con có quyền thưa KHÔNG. KHÔNG và KHÔNG!

Nói đến đây, cô bé úp mặt khóc nức nở. Khóc vì hờn, vì đói và vì .. “chiến thuật” nữa. Cô bé biết rõ Ba Má rất cưng chìu mình, đặc biệt là Ba! Và Têrêxa đã thành công. Ông bà đành chấp nhận cho cô con gái dọn mình xưng tội và rước lễ lần đầu .. Têrêxa vui mừng không xiết kể. Cô bé dâng lời tạ ơn: “Cám ơn Đức Mẹ dấu ái của con. Chúa ơi, nếu Mẹ không giúp, hẳn là con không đủ sức chiến đấu đến cùng. Giờ đây, con xin Mẹ thay đổi lòng Ba Má con, để Ba Má cũng dọn mình rước Chúa GIÊSU với con. Mẹ làm được mọi sự, bởi vì Thiên Chúa không từ chối điều gì với Mẹ. Con hoàn toàn tin tưởng nơi sự cầu bầu của Mẹ. Amen”.

(MARIA Winowska “Les Voleurs de Dieu”, Editions Saint Paul, 1989, trang 129-137).


Bấm vào đây trở về “Tin YÊU Và Hy Vọng Của Kitô Giáo”

Gương CHỨNG NHÂN