LÒNG TRI ÂN CỦA CÁC LINH HỒN

Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt

Khi tu viện Đức Bà được khởi công tại Aversa, gần thành phố Napoli, Nam Ý, cha Hilarion Thánh-Antôn, được chỉ định làm người điều khiển công cuộc xây cất. Cha Hilarion là một tu sĩ thánh thiện. Mỗi buổi sáng, cha đều dâng thánh lễ trước khi bắt đầu công việc.

Một ngày, ông Gioan đến xin giúp lễ cho cha Hilarion. Ông là giáo dân phụ cha trong chức vụ quản lý. Sáng hôm ấy, cha Hilarion dâng lễ cầu nguyện cho các Đẳng Linh Hồn nơi Lửa Luyện Ngục. Ông Gioan cũng rước lễ hiệp ý với cha .. Sau thánh lễ, cha Hilarion mời ông chia sẻ bữa ăn trưa thanh đạm với mình. Ông Gioan nhận lời.

Đến giờ, ông Gioan đến nơi như đã hẹn. Vừa bước vào dãy nhà trong, nơi hành lang, ông gặp ngay một thanh niên dáng điệu thanh nhã, ăn mặc sang trọng, đang đứng đó. Chàng ngỏ ý muốn gặp cha Hilarion để bàn về một vấn đề quan trọng. Ông Gioan vội báo tin cho cha Hilarion biết. Nhưng cha nhất mực từ chối, không muốn gặp chàng thanh niên, lấy lý do không phải giờ tiếp khách. Ông Gioan trở ra giải thích việc cha Hilarion không thể tiếp chàng. Nhưng chàng thanh niên nài nĩ xin gặp cha. Chàng nói rõ hơn ý hướng của chàng: "Nhân danh tình yêu Thiên Chúa, xin cha Hilarion hãy chia sẻ cho tôi một ít bánh ăn của cha".

Khi nghe ông Gioan lập lại lời xin, cha Hilarion tỏ ra vô cùng ngạc nhiên. Cha tự nhủ: "Làm sao một thanh niên nhã nhặn quý phái như thế, đáng lý phải rộng tay làm phúc cho người khác, đàng này, lại ngửa tay xin bánh ăn của một thày dòng?". Dầu nghĩ vậy, cha Hilarion vẫn vui vẻ ra gặp chàng. Cha xin chàng vui lòng đợi một chút. Rồi cha đi vào nhà trong, đến thùng đựng bánh, lấy ra một ổ bánh. Cha rút nhằm chiếc bánh ngon nhất, dù cha không có ý chọn. Cha định đổi ổ bánh khác, ít ngon hơn để biếu cho chàng ăn xin. Nhưng một ý nghĩ thoáng hiện ra trong đầu: "Tại sao lại có sự so đo khác biệt này? Biết đâu chàng thanh niên lại chẳng là một thiên thần, sứ giả của Thiên Chúa, đến từ Trời Cao? Bởi vì, quả thế, chàng đã vào tận nhà trong, khi mà mọi cổng ra vào đã đóng kín?".

Nghĩ thế, nên cha Hilarion giữ nguyên ổ bánh mì ngon và chọn thêm một vài thức ăn khác, rồi đem tất cả biếu cho chàng thanh niên ăn mặc sang trọng kia. Cha xin chàng vui lòng chấp nhận các thức ăn đạm bạc, vì chàng đến bất ưng. Rồi cha để chàng ngồi đó dùng bữa và lui vào phòng bên cạnh để ăn trưa với ông Gioan.

Nhưng cả hai người không tài nào ăn được một miếng. Bởi lẽ, cả hai gần như hoảng hồn, ngẩn ngơ với nghi vấn: "Làm sao người thanh niên có thể vào tận nhà trong, khi các cửa ra vào đều đóng kín?". Đối với cha Hilarion, người khách lạ với dung nhan tuyệt mỹ, không ai khác là một Thiên Thần đến từ Trời Cao. Trong khi ông Gioan lại nói:
- "Biết đâu người khách là một trong những Linh Hồn nơi Lửa Luyện Hình, chúng ta đã cùng nhau cầu nguyện trong thánh lễ sáng nay?".

Sau một lúc, ước tính người khách đã dùng bữa xong, ông Gioan liền đến chào từ biệt. Vừa trông thấy ông, chàng thanh niên nhã nhặn đứng lên và nói:
- "Thưa ông, chúng ta hãy dâng lời cảm tạ Thiên Chúa. Hãy cùng nhau đọc một kinh LẠY CHA và một kinh KÍNH MỪNG, cầu cho các Đẳng Linh Hồn còn bị giam cầm trong Lửa Luyện Tội". Nói xong, người khách quỳ ngay xuống, chắp tay lại, ngước mắt lên Trời và sốt sắng đọc kinh. Xong, chàng đọc thêm lời nguyện của ngày Chúa Nhật và kinh Truyền Tin. Rồi đứng lên, chàng cầm lấy tay ông Gioan và nói:
- "Xin ông thưa lại với cha Hilarion rằng: Kể từ nay, đừng cầu nguyện cho Linh Hồn thân phụ của cha nữa, bởi vì, ngay chính lúc này đây, Linh Hồn thân phụ cha bay thẳng lên Trời". Nói xong, chàng thanh niên biến mất, như sương mù tan đi khi có ánh sáng mặt trời.

Ông Gioan kinh hoảng, đứng im như trời trồng. Khi hoàn hồn, ông gọi to tiếng: "Cha, cha Hilarion ơi!". Nhưng tiếng kêu như bị chặn đứng trong họng. Khi cha Hilarion chạy đến thì ông Gioan nằm bất tỉnh. Phải lâu lắm cha mới làm cho ông tỉnh lại và kể cho cha nghe lời người thanh niên nói. Cả hai đồng thanh dâng lời cảm tạ lòng nhân từ của Chúa, đã đoái thương cho hai người chiêm ngưỡng một phần nào dung nhan tuyệt vời của Linh Hồn được gọi vào hưởng tôn nhan Chúa.

("Le Ciel Parmi Nous", Editions Bénédictines, 1997, trang 142-145).

CÁC ĐẲNG LINH HỒN Trong Luyện Ngục

Vào năm 1827, tại thủ đô Paris nước Pháp có một thiếu nữ giúp việc nghèo thật nghèo nhưng vô cùng quảng đại. Cô tên Têrêsa. Têrêsa có thói quen lành thánh: mỗi tháng xin một thánh lễ cầu cho các đẳng Linh Hồn trong Luyện Ngục. Nhưng rồi Thiên Chúa thử thách cô bằng một chứng bệnh hiểm nghèo, khiến cô vô cùng đau đớn. Têrêsa bị mất việc làm và tiêu tán tiền của. Ngày cảm thấy kha khá, Têrêsa ra khỏi nhà với vỏn vẹn 20 xu trong túi. Cô rảo qua các khu phố để tìm việc làm. Khi đi ngang nhà thờ thánh Eustache, Têrêsa ghé vào cầu nguyện. Bỗng cô sực nhớ ra là tháng ấy, cô chưa xin lễ cho các đẳng Linh Hồn. Nhưng Têrêsa thoáng chút do dự. Số tiền 20 xu cũng là lương thực cho cô trong ngày hôm ấy. Nhưng Têrêsa không do dự lâu. Cô biết mình phải làm gì. Bất ngờ một linh mục bước vào nhà thờ, chuẩn bị dâng thánh lễ. Têrêsa hỏi cha có bằng lòng dành thánh lễ hôm ấy để cầu cho các đẳng Linh Hồn không. Cha vui vẻ nhận lời với số tiền dâng cúng 20 xu của Têrêsa .. Thánh lễ cầu cho các đẳng Linh Hồn chỉ có vị linh mục chủ tế và một giáo dân tham dự.

Lễ xong, Têrêsa ra khỏi nhà thờ tiếp tục đi lang thang tìm việc làm. Têrêsa thật sự lo lắng vì đi mãi mà không có hy vọng gì hết. Bỗng một chàng trai dáng vẽ quí tộc tiến đến gần và hỏi: "Cô tìm việc làm phải không?". Têrêsa nhanh nhẹn trả lời: "Thưa ông phải". Người thanh niên nói tiếp: "Cô hãy đến đường X nơi nhà số Y, chắc chắn cô sẽ có việc làm và sẽ được hạnh phúc". Nói xong, chàng trai bỏ đi ngay không đợi nghe lời Têrêsa rối rít cám ơn.

Khi tìm được căn nhà đúng số đã chỉ, Têrêsa thấy một cô giúp việc từ trong nhà đi ra, nét mặt cau có khó chịu. Têrêsa rụt rè hỏi thăm bà chủ có nhà hay không? Cô kia đáp lửng lơ: "Có lẽ có .. có lẽ không .. nhưng có hệ gì! vì đâu có dính dáng gì đến tôi". Nói xong, cô gái ngoay ngoảy bỏ đi.

Têrêsa run rẩy bấm chuông. Một tiếng nói dịu dàng bảo vào. Têrêsa bỗng đối diện với một phụ nữ cao niên quí phái. Bà nhẹ nhàng bảo Têrêsa hãy trình bày cho bà biết cô muốn gì. Têrêsa nói nhanh:
- "Thưa bà, sáng nay cháu hay tin bà cần một người giúp việc. Cháu xin đến nhận chỗ làm này. Người ta bảo đảm với cháu là bà sẽ tiếp nhận cháu với lòng nhân hậu".
Bà chủ ngạc nhiên nói với Têrêsa:
- "Điều cháu vừa nói thật là lạ. Sáng nay bà chả cần ai hết. Nhưng cách đây nửa giờ bà vừa đuổi một cô giúp việc vì nó chễnh mãng trong việc làm. Chuyện này chưa hề có người nào biết, ngoại trừ bà và cô giúp việc. Vậy thì ai đã chỉ cho cháu đến đây?".
Têrêsa đơn sơ trả lời:
- "Một thanh niên dáng điệu sang trọng, cháu gặp ngoài đường, đã bảo cháu đến đây".

Bà chủ nhà thử tìm cho biết người thanh niên ấy là ai, nhưng vô hiệu.
Bỗng Têrêsa nhìn lên và trông thấy tấm hình một chàng trai treo trên tường. Têrêsa mừng rỡ kêu lên:
- "Thưa bà, bà không cần phải tìm đâu cho xa. Đây chính là gương mặt người thanh niên đã nói chuyện với cháu. Chính anh ta đã chỉ đường cho cháu đến đây".

Vừa nghe xong, bà chủ nhà kêu lên một tiếng thất thanh, như muốn ngã xuống bất tỉnh. Xong, bà bảo Têrêsa tỉ mỉ kể lại cho bà nghe, bắt đầu từ chuyện cô có lòng thương mến các đẳng Linh Hồn, đến Thánh Lễ sáng hôm ấy, rồi chuyện gặp gỡ chàng thanh niên.
Khi Têrêsa chấm dứt, bà chủ âu yếm ôm hôn cô và nói:
- "Cháu không phải là đầy tớ giúp việc cho bà, nhưng từ giờ phút này, cháu là con gái bà. Chàng thanh niên mà con trông thấy chính là đứa con trai độc nhất của bà. Con bà chết cách đây hai năm và ngày hôm nay chính con đã giải thoát nó ra khỏi Lửa Luyện Hình. Bà chắc chắn như thế. Bà hết lòng ghi ơn con. Giờ đây chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cho tất cả những Linh Hồn còn chịu thanh tẩy trong Lửa Luyện Ngục trước khi được vào hưởng hạnh phúc vĩnh cửu muôn đời.

(Jacques Lefèvre, "Les Âmes du Purgatoire dans la vie des Saints", Editions Résiac, 1995, trang 35-37).

HÌNH KHỔ CÁC ĐẲNG LINH HỒN

Sử liệu các cha dòng Capucino ghi lại câu chuyện liên quan đến những cực hình các đẳng Linh Hồn phải chịu trong Lửa Luyện Ngục.

Cha Hippolyte de Scalvo là người tôi tớ tín trung của Chúa. Cha đặc biệt có lòng thương mến các đẳng Linh Hồn. Cha luôn luôn cầu nguyện cho các vị được mau mau giải thoát khỏi chốn Luyện Hình. Cầu nguyện chưa đủ, cha Hippolyte còn ăn chay hãm mình đền bù thay cho các đẳng và thường thuyết giảng về Luyện Ngục. Cha nhắc các tín hữu nhớ cầu nguyện, dâng các hy sinh và việc lành phúc đức để cầu cho các Linh Hồn được sớm về hưởng tôn nhan Chúa. Sáng nào cũng thế, cha Hippolyte thức dậy thật sớm để nguyện kinh cầu cho những người quá cố. Chúa Nhân Lành đã dùng gương vị tôi tớ Ngài để giúp các tín hữu hiểu phần nào những hình phạt các đẳng Linh Hồn phải chịu trong Lửa Luyện Hình.

Năm ấy cha Hippolyte được Bề Trên gởi đến Flandres, một thành phố nằm ở biên giới hai nước Pháp và Bỉ, để mở một tu viện các cha dòng Capucino. Trong số các tu sĩ cùng đi với cha Hippolyte có một thầy dòng hết sức đạo đức. Nhưng vừa đến nơi, vị tu sĩ này ngã bệnh nặng và đột ngột từ trần.

Sáng hôm sau đó, cha Hippolyte quì cầu nguyện trong nhà thờ, sau giờ Kinh Sáng. Bỗng chốc cha thấy xuất hiện trước mặt mình vị tu sĩ quá cố, dưới hình một bóng ma phủ đầy lửa. Người quá cố thú tội cùng Cha Bề Trên với lời rên rỉ não nề về một lỗi nhẹ mà thầy đã quên xưng khi còn sống. Thú tội xong, thầy thưa: "Xin cha cho con việc đền tội tùy ý cha và xin cha ban phép lành cho con hầu con được giải thoát khỏi khuyết điểm khiến con phải đau khổ vô ngần trong Lửa Luyện Ngục". Cảm kích trước tình trạng thảm sầu của vị tu sĩ thuộc quyền quá cố, cha Hippolyte vội vàng nói ngay:
- "Nhân danh quyền được phép, tôi xin tha tội cho thầy và chúc lành cho thầy. Còn về việc đền tội, vì thầy bảo là tôi có quyền ra việc đền tội, thì xin thầy hãy ở trong Lửa Luyện Ngục cho đến giờ Kinh Thứ Nhất, tức vào khoảng 8 giờ sáng nay".

Cha Hippolyte nghĩ rằng mình đã khoan hồng khi ra việc đền tội cho tu sĩ quá cố chỉ ở lại nơi Luyện Hình vài giờ! Nào ngờ, vừa nghe xong án lệnh, thầy dòng đạo đức như rơi vào trạng huống tuyệt vọng. Thầy vừa chạy vòng vòng trong nhà thờ vừa kêu la thảm thiết:
- "Ôi tấm lòng không đại lượng! Ôi người cha không biết cảm thương một Linh Hồn sầu não! Sao cha lại trừng phạt cách khủng khiếp một lỗi nhẹ mà nếu con còn sống, hẳn cha chỉ ra một việc đền tội cỏn con. Cha quả thật không biết tí gì về những kinh hoàng các Linh Hồn phải chịu trong Lửa Luyện Ngục!".

Nghe lời trách cứ nặng nề của vị tu sĩ quá cố, cha Hippolyte như "dựng tóc gáy" và cảm thấy vô cùng ân hận. Cha tìm cách "vớt vát" cái vô ý thức của mình. May mắn thay, cha nghĩ ra được một diệu kế. Cha vội vàng đánh chuông, gọi các tu sĩ trong cộng đoàn vào nhà thờ nguyện Kinh Giờ Một. Khi các tu sĩ có mặt đầy đủ, cha Hippolyte kể lại câu chuyện vừa xảy ra và cùng với cộng đoàn bắt đầu đọc ngay Kinh Giờ Một, hầu cho thầy dòng quá cố được sớm giải thoát khỏi lửa luyện hình.

Từ ngày đó cho đến khi qua đời, trong vòng 20 năm trời, Cha Hippolyte de Scalvo không bao giờ quên câu chuyện đã xảy ra. Trong các bài giảng, cha thường lập lại câu nói của thánh Anselmo (1033-1109): "Sau khi chết, hình phạt nhẹ nhất đón chờ ta trong Lửa Luyện Hình trở thành lớn lao hơn tất cả những gì trí khôn ta có thể tưởng tượng được khi còn sống trên trần gian này".

(Jacques Lefèvre, "Les Âmes du Purgatoire dans la vie des Saints", Editions Résiac, 1995, trang 24-26).

CÁC LINH HỒN ĐỀN TỘI NƠI LỬA LUYỆN HÌNH

Bà Maria Agatha Simma sinh ngày 5-2-1915 tại Sonntag, nước Áo, trong một gia đình nghèo thật nghèo. Bà có lòng yêu thương cách riêng các Linh Hồn nơi Lửa Luyện Ngục. Vì thế, bà được Thiên Chúa chọn làm vị tông đồ giúp đỡ các Linh Hồn. Chúa cho phép các Linh Hồn nơi Luyện Hình hiện về với bà để xin bà cầu nguyện hoặc làm việc đền bù phạt tạ thay cho các ngài. Bà cũng được đặc ân nhờ dịp này, hỏi các Linh Hồn về số phận của một vài Linh Hồn khác: còn bị giam nơi Lửa Luyện Hình hay đã về Thiên Quốc rồi. Bà Maria Agata Simma kể:
Chỉ vào những ngày thứ bảy đầu tháng hoặc vào những ngày Lễ kính Đức Mẹ, tôi mới có thể hỏi xem một Linh Hồn còn đền tội nơi Lửa Luyện Hình hay không. Khi một Linh Hồn hiện ra và sau khi đã trình bày những gì Linh Hồn cần xin để được giải thoát khỏi Lửa Luyện Hình, mà Linh Hồn vẫn còn đứng đó, thì tôi hiểu rằng, tôi có thể đặt một vài câu hỏi. Dĩ nhiên tôi không thể hỏi thẳng về số phận của chính đương sự, bởi vì, điều dễ hiểu là Linh Hồn này chỉ được ra khỏi Luyện Ngục sau khi người ta đã thi hành điều Linh Hồn xin .. Thường thì một Linh Hồn chỉ có thể cho biết về số phận của một Linh Hồn khác. Và Linh Hồn khác đó cũng có thể được phép hiện về để xin người ta làm việc lành hầu giải thoát mình khỏi Lửa Luyện Tội.

Có khi phải đợi 2 hoặc 3 năm, hoặc ít hơn, mới nhận được câu trả lời. Tùy theo lòng Nhân Lành của Thiên Chúa ban phép. Thường thì các Linh Hồn nơi Luyện Ngục không thể cho biết Linh Hồn nào bị rơi xuống hỏa ngục. Tuy nhiên, không vì thế mà kết luận rằng: không có hỏa ngục! Trái lại, chắc chắn có hỏa ngục và có rất nhiều người bị rơi vào đó! Nếu có ai hỏi tôi rằng: phương thế nào hữu hiệu nhất, giúp khỏi bị rơi vào hỏa ngục, tôi xin thưa:
- "Hãy sống khiêm nhường. Kẻ nào có lòng khiêm nhường không bị rơi vào hỏa ngục; còn kẻ nào kiêu ngạo thì kẻ đó có nguy cơ bị trầm luân đời đời kiếp kiếp trong lửa hỏa ngục!".
Có người hỏi tôi: "Trong Luyện Ngục có các trẻ em bị giam cầm không?", tôi xin thưa: "Có, đôi khi có cả các trẻ em chưa cắp sách đến trường nữa. Vừa khi một đứa trẻ biết điều gì không tốt mà vẫn làm thì đứa trẻ đó phạm một lỗi. Dĩ nhiên đối với trẻ em thời gian trong Luyện Ngục không kéo dài lâu, cũng không khủng khiếp lắm, bởi vì đứa trẻ chưa có trí phán đoán hoàn toàn. Thế nhưng đừng nghĩ rằng, một đứa trẻ chưa hiểu gì! Không hẳn thế. Một đứa trẻ hiểu hơn là chúng ta tưởng nghĩ! Trẻ em thường có một lương tâm bén nhạy hơn người lớn!

Một ngày, một người đàn ông đến xin tôi hỏi thăm về số phận của người vợ quá cố. Câu trả lời cho biết là bà vẫn còn bị giam trong Lửa Luyện Hình. Điều đáng nói: bà này là thành viên của nhiều Hội Đoàn, trong ấy, người ta có thể nhận lãnh ơn toàn xá trong giờ lâm tử. Do đó, người ta nghĩ bà đã được lên Thiên Đàng lâu lắm rồi!

Tôi xin một Linh Hồn nơi Lửa Luyện Hình giải thích lý do. Linh Hồn đó trả lời: "Để được nhận lãnh hoàn toàn một ơn toàn xá cho chính mình, người đó không được dính bén bất cứ sự gì nơi trần gian này. Đây là một đòi hỏi triệt để. Lấy ví dụ: một người mẹ trẻ có năm đứa con dại đang quây quần bên giường chết. Vậy mà, người mẹ trẻ sắp chết đó phải thưa cùng Chúa:
- "Con chỉ muốn điều Chúa muốn. Sống hay chết tùy ý Chúa!".
Thật là đòi hỏi khe khắt. Đúng vậy. Vì thế, cần phải luôn sống trong sự từ bỏ hoàn toàn và liên miên, mới có thể đạt đến tâm tình không dính bén bất cứ điều gì, vào giờ Chúa gọi từ bỏ tất cả để về với Ngài nơi Thiên Quốc!

Một Linh Hồn kể cho tôi nghe như sau. Tôi chết ngay tại chỗ trong tai nạn xe môtô, trên một đường phố ở thủ đô Vienne của nước Áo. Tôi bị tử nạn vì không tôn trọng luật đi đường. Đó là số phận của tôi. Tôi hỏi Linh Hồn:
- "Lúc đó, anh đã sẵn sàng để ra đi về thế giới bên kia chưa?". Linh Hồn thú nhận:
- "Tôi chưa sẵn sàng, nhưng Thiên Chúa Nhân Từ luôn ban cho một người - không bao giờ chủ ý phạm tội, hoặc không vì kiêu căng mà phạm tội chống lại Thiên Chúa - một thời gian ngắn hai hay ba phút để ăn năn tội cách trọn. Chỉ người nào khi ấy vẫn còn từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa, mới bị kết án trầm luân đời đời trong Hỏa Ngục".
Linh Hồn này còn nói thêm một điều đáng suy nghĩ. Trong nhiều trường hợp, người ta nói:
- "Đã đến giờ Chúa định cho người ấy phải chết". Thật ra không luôn luôn đúng như vậy. Chỉ đúng trong trường hợp một người chết không do ý muốn hoặc lỗi của mình. Còn trong trường hợp của tôi, theo chương trình của Chúa, đáng lý tôi còn sống thêm được 30 năm nữa! Vì thế, chúng ta không có quyền đánh liều, đưa mạng sống chúng ta vào vòng nguy hiểm, trừ khi có lý do chính đáng! ..

.....
Hồi ấy là năm 1954, vào khoảng 14 giờ 30 phút chiều. Trên đường đi đến làng Marul, tôi gặp một bà lão. Tôi thầm nghĩ: "Hẳn cụ này phải 100 tuổi!", bởi lẽ tôi thấy bà cụ già quá già! Tôi liền thân mật cất tiếng chào cụ. Bà lão nói:
- "Sao lại chào tôi? Bởi vì, chả ai còn thèm chào tôi nữa!".
Tôi an ủi:
- "Cụ đáng được chào như bất cứ người nào khác". Thế là bà cụ bắt đầu than thở:
- "Không một ai còn tỏ dấu gì thân thiện đối với tôi. Chả ai thèm cho tôi cái gì để ăn và tôi phải nằm ngủ bên lề đường".
Nghe bà lão than van như vậy, tôi tự nhủ: - "Không thể nào xảy ra như thế được! Hẳn là bà cụ đã mất trí, bị điên điên khùng khùng rồi!".
Nghĩ thế, nên tôi tìm cách chứng minh cho bà cụ thấy là không thể nào xảy ra như vậy được. Nhưng bà cụ cương quyết nói:
- "Nhưng thực sự là như thế!".
Tôi bèn nghĩ, có lẽ bà cụ làm cho người ta nhàm chán, nên không ai muốn giữ bà lâu, thêm vào đó, tuổi bà lại cao. Tôi liền mời bà về nhà để ăn và ngủ tại nhà tôi. Bà cụ lại nói:
- "Nhưng tôi lại không có tiền để trả".
Tôi trả lời:
- "Không sao hết. Điều quan trọng là cụ phải chấp nhận tất cả những gì cháu dâng cho cụ. Nhà cháu không có nhiều tiện nghi lắm, nhưng vẫn hơn là ngủ ngoài đường".
Nghe tới đây, bà lão vội vàng nói:
- "Tôi xin hết lòng cám ơn. Xin Thiên Chúa trả công bội hậu cho bà. Bây giờ, tôi được giải thoát!". Nói xong, bà cụ biến mất.

Ngay lúc ấy, tôi mới nhận ra bà lão là một Linh Hồn nơi Lửa Luyện Ngục. Chắc chắn khi còn sống, bà cụ đã từ chối không tiếp rước và giúp đỡ một người nào đó, trong cơn túng bẫn. Giờ đây, bà cụ phải đợi cho đến khi có một người sẵn sàng giúp đỡ bà ngay, không so đo do dự, chỉ khi ấy, bà mới được giải thoát khỏi Lửa Đền Tội.

......
Một hôm, một Linh Hồn hiện về và hỏi tôi:
- "Bà có nhận ra tôi không?". Tôi đáp không. Linh Hồn liền nói:
- "Có. Bà đã có lần trông thấy tôi. Hồi năm 1932, bà cùng đi xe lửa với tôi đến Hall. Hôm ấy, tôi ngồi trong cùng một toa với bà". Nghe tới đây, tôi nhớ lại rõ ràng chuyến đi hôm ấy. Phải rồi, đây là người đàn ông khi ngồi trong xe lửa đã lớn tiếng chỉ trích Hội Thánh và Kitô Giáo. Mặc dầu lúc ấy tôi mới có 17 tuổi, nhưng tôi đã hiểu rõ tầm quan trọng của vấn đề. Tôi thẳng thắn nói với ông ta rằng:
- "Bác không phải là người đàng hoàng, vì bác sao nhãng những việc thật thánh thiện".
Ông ta trừng mắt nhìn tôi:
- "Cháu còn quá trẻ, mà dám cho bác một bài học sao? Không, bác không cho phép như thế đâu!". Không hiểu sao tôi vẫn bạo dạn nói:
- "Dầu vậy, cháu vẫn là người thông minh hơn bác!". Nghe thế, người đàn ông cúi gầm mặt xuống và từ đó không mở miệng nói lời nào cả. Khi ông bước xuống xe lửa, tôi liền thầm thĩ kêu van cùng Chúa:
"Xin Chúa đừng để Linh Hồn này bị hư mất đời đời!".
Bây giờ, Linh Hồn này nói với tôi: "Chính nhờ lời cầu nguyện của bà hôm ấy mà tôi được cứu thoát, nếu không tôi đã bị trầm luân trong hỏa ngục rồi! Cám ơn bà nhiều lắm".

.......
Một Linh Hồn hiện về với thùng rác cầm tay. Tôi hỏi:
- "Đây là chìa khóa mở cửa Thiên Đàng cho tôi! Khi còn sống, tôi cầu nguyện rất ít. Họa hoằn lắm tôi mới đến nhà thờ xem lễ một lần. Nhưng một hôm, trước lễ Giáng Sinh, tôi đã tình nguyện quét dọn nhà cửa cho một bà cụ nghèo thật nghèo. Nhờ thế mà tôi được cứu rỗi. Điều này chứng tỏ rằng: tất cả đều tùy thuộc nơi việc chúng ta có thi hành đức bác ái hay không!".

Lần khác, Linh Hồn một Linh Mục hiện về với cánh tay phải đen thui, trông thật hãi hùng! Tôi hỏi lý do Linh Hồn trả lời:
- "Đáng lý tôi phải thường xuyên ban nhiều phép lành hơn nữa! Vậy bà hãy nói với tất cả các Linh Mục bà có dịp gặp, rằng: Xin các cha hãy chúc lành nhiều hơn nữa. Bởi vì, các Linh Mục càng ban nhiều phép lành, càng phân phát được nhiều ơn thiêng, có sức mạnh đẩy xa sự dữ cùng tà ma phá hoại loài người".

Lần kia, một Linh Hồn sau khi trình bày với tôi những gì Linh Hồn cần để được giải thoát khỏi Lửa Luyện Hình, liền nói thêm: "Nếu người ta làm cho tôi điều ấy, tôi sẽ được hài lòng". Chỉ có vậy, không thêm không bớt điều gì nữa, ngoại trừ chi tiết ông ta sống tại đâu và qua đời khi nào.

Tôi lập lại những gì Linh Hồn này xin cho các thân nhân. Các thân nhân tỏ dấu nghi ngờ không tin. Họ muốn biết có phải tất cả các Linh Hồn khi hiện về đều nói câu: "Nếu người ta làm cho tôi điều ấy, tôi sẽ được hài lòng". Tôi trả lời:
- "Không, cho đến bây giờ thì đây là lần đầu tiên, một Linh Hồn nói như thế". Các thân nhân muốn biết thêm tại sao Linh Hồn lại nói như vậy. Tôi trả lời: "Không biết!". Họ liền nói:
- Thế thì chúng tôi biết tại sao. Đó là phương châm của thân phụ quá cố chúng tôi. Lúc còn sống, người thường nói: "Nếu các con làm điều đó, cha rất hài lòng". Vì thế, chúng tôi tin lời bà.

Những người này không còn đến nhà thờ tham dự thánh lễ Chúa nhật nữa. Đối với họ, đây là giới luật của Hội Thánh chứ không phải một giới răn đến từ Thiên Chúa. Tôi giải thích cho họ hiểu:
"Nơi cuộc sống vĩnh cửu, một giới răn do Giáo Hội đặt ra cũng có giá trị y như một giới luật đến từ Thiên Chúa. Chỉ có sự khác biệt duy nhất: Giáo Hội có thể xóa bỏ hay thay đổi một giới luật do Giáo Hội đặt ra, trong khi giới răn đến từ Thiên Chúa thì bất biến. Giáo Hội không được phép cũng không có quyền thay đổi giới luật của Thiên Chúa".
Một Linh Hồn thú nhận với tôi rằng:
- "Tôi đã phạm một tội ác chống lại Thiên Chúa. Một ngày, trong cơn giận bốc cao, tôi vứt mạnh Thánh Giá Chúa Giêsu xuống đất, rồi lấy chân đạp nát! Vừa đạp, tôi vừa thách thức: Nếu Thiên Chúa hiện hữu thật sự, Ngài không để cho điều ấy xảy ra! Nhưng Thiên Chúa không dung tha cho kẻ nào dám chế nhạo Ngài. Tôi bị phạt nằm cứng đơ tại chỗ. Nhưng hình phạt bất toại này lại là ơn cứu rỗi cho tôi!". Kể xong, Linh Hồn xin tôi nhắn lại với người vợ, những gì bà phải làm để có thể giảm bớt hình phạt nặng nề của ông nơi Lửa Luyện Ngục.
Khi tôi lập lại những điều ông ta nói với vợ, bà này tỏ ra vô cùng kinh hãi. Từ lâu, bà đã rời bỏ Giáo Hội Công Giáo. Bà nói với tôi:
- "Chuyện chồng tôi xúc phạm đến Thánh Giá Chúa Giêsu, chỉ duy nhất hai vợ chồng chúng tôi biết. Tôi không hề tiết lộ với ai. Chồng tôi cũng không thể nào kể lại cho ai nghe. Nếu Linh Hồn đó có thể nói như thế, tôi xin tin lời bà".

Sau đó, bà ta ăn năn thống hối và trở về với Giáo Hội Công Giáo.

Linh Hồn một bác sĩ hiện về than thở về hình phạt nặng nề ông đang phải đền trong Lửa Luyện Ngục. Lý do là khi còn sống, trong lúc hành nghề, ông đã chích thuốc cho các bệnh nhân làm giảm cơn đau, nhưng cùng lúc, khiến họ chóng chết. Giờ đây, ông mới thấy rõ tầm quan trọng và giá trị lớn lao của đau khổ, nhất là những đau khổ được chấp nhận với lòng kiên nhẫn, nang lại một giá trị vô biên. Linh Hồn nói:
- "Người ta được phép làm giảm bớt các đau đớn quá lớn, nhưng không được quyền rút ngắn cuộc sống của các bệnh nhân, bằng những phương tiện hóa học, y khoa".

........
Một ngày, một người đàn ông đến nhà tôi. Ngay từ nơi hành lang, ông cất tiếng hỏi với một giọng khinh khi:
- "Cái bà thường đùa giai với vụ các Linh Hồn ở Luyện Ngục hiện về, đang trốn xó nào rồi?".
Tôi trả lời:
- "Xin ông đi về phía này. Tôi đang đứng ở đây. Và không có chuyện đùa giai với các Linh Hồn nơi Lửa Luyện Hình đâu!".
Nghe vậy, ông ta lầm bầm trong miệng, rồi đi thẳng vào vấn đề:
- "Bà có phải là người mà ông E. hiện về với bà không?". Thì ra ông ta là người nhà của ông E. mà tôi đã thông truyền lại những gì ông E. nhắn gởi. Ông E. muốn người nhà phải hoàn trả lại tài sản đã chiếm hữu cách bất chính.
Sau khi nghe tôi xác nhận, ông ta nổi giận đùng đùng, quát tháo ầm ĩ:
- "Tài sản nào đã chiếm hữu bất chính mà chúng tôi phải hoàn trả lại?".
Tôi trả lời:
- "Tài sản nào thì tôi không biết. Ông E. chỉ nhờ tôi nói lại với người nhà như thế. Chính người nhà của ông E. phải biết rõ đâu là tài sản đã chiếm hữu bất chính và phải hoàn trả lại cho chủ nhân".
Vừa trả lời, tôi vừa nghĩ là ông ta biết rõ tài sản nào. Thế rồi, theo lời ông ta nói, tôi biết ông là người không sống đạo và chỉ trích mọi người từ Đức Thánh Cha đến các Giám Mục, Linh Mục và Giáo Hội Công Giáo. Tôi từ từ giải thích cho ông hiểu mọi chuyện. Ông dịu hẳn lại và nói:
- "Nếu quả đúng như vậy, tôi phải thay đổi cuộc sống. Tôi không tin tưởng nơi một Linh Mục nào hết, nhưng giờ đây, tôi phải bắt đầu đặt niềm tin nơi Thiên Chúa, bởi vì, bà không thể nào biết được trong gia sản của chúng tôi, có những tài sản mà chúng tôi đã chiếm hữu cách bất hợp pháp. Kể cả các thân nhân họ hàng của chúng tôi, phần đông cũng không biết điều này..".
Lần kia, Linh Hồn hiện về với tôi là một bà mẹ gia đình. Linh Hồn nói:
- "Tôi bị giam cầm đền tội nơi Lửa Luyện Ngục trong vòng 30 năm trời. Lý do là vì tôi đã ngăn cản không cho phép con gái tôi gia nhập dòng tu".
Linh Hồn nói thêm:
- "Khi các bậc cha mẹ phải dâng con cho Chúa và khi Thiên Chúa gọi con cái vào chức vụ Linh Mục hoặc đời sống tu trì, mà cha mẹ ngăn cản, cha mẹ chịu một trách nhiệm vô cùng nặng nề .. Có rất nhiều người trẻ, đáng lý đã trở thành linh mục hoặc tu sĩ, nhưng không được cha mẹ cho phép. Các cha mẹ này phải trả lẽ nặng nề trước mặt Thiên Chúa".

Một người đàn ông viết cho tôi rằng, vợ ông qua đời đã hơn một năm. Nhưng kể từ đó, đêm nào phòng ông cũng bị đập ầm ầm, không ngủ được. Ông xin tôi đến, xem có thể làm được gì giúp ông không.
Tôi nhận lời nhưng nói trước có lẽ tôi không làm được gì nhiều. Nếu vợ ông chưa được phép hiện về, đành phải phó thác mọi sự trong tay Chúa Quan Phòng. Tôi đến và ngủ trong phòng đó. Vào khoảng 23 giờ 30 phút, tiếng đập cửa bắt đầu nổi lên. Tôi cất tiếng hỏi: "Linh Hồn muốn gì? Tôi có thể làm gì giúp cho Linh Hồn?". Tôi không thấy ai cũng không nghe tiếng trả lời. Tôi nghĩ là bà này chưa được phép nói. Sau khoảng 5 phút, một con hà mã xuất hiện. Trông thật khủng khiếp. Tôi liền rảy nước thánh và hỏi:
"Tôi phải làm cách nào để giúp Linh Hồn?". Vẫn không có tiếng trả lời. Tức khắc, xuất hiện một con rắn khổng lồ. Con rắn quấn chặt quanh con hà mã, như để bóp chết. Rồi cả hai con thú biến mất. Tôi buồn rầu tự nhủ: "Không lẽ Linh Hồn này bị trầm luân đời đời sao?". Một lúc sau, một Linh Hồn khác xuất hiện. Linh Hồn này an ủi tôi:
- "Đừng sợ. Bà ấy không bị rơi xuống hỏa ngục đâu. Nhưng bà bị một thứ hình phạt nơi Luyện Tội dữ dằn nhất. Lý do là khi còn sống, bà đã giữ mối hận thù triền miên với một phụ nữ khác. Phụ nữ này đã nhiều lần tìm cách xin lỗi và làm hòa, nhưng bà ấy nhất định từ chối, ngay cả khi bị bệnh nặng gần chết!".

Câu chuyện Linh Hồn trên đây cho thấy Thiên Chúa trừng phạt nặng nề những tội phạm lỗi đức bác ái, chống lại người thân cận.

(Maria Simma, "Les Âmes du Purgatoire m'ont dit", Editions Du Parvis, 1990).

LÀM PHÚC CẦU CHO CÁC ĐẲNG LINH HỒN

Đức cha Ercoli Attuoni là Tổng Giám Mục giáo phận Fermo, thuộc Đông Bắc nước Ý. Ngài qua đời cách thánh thiện ngày 31-5-1941. Khi còn sống, đức cha thường rao giảng và viết về một thói quen tốt lành, vẫn được thi hành trong Giáo Hội Công Giáo tại Ý thời bấy giờ. Hàng năm, cứ vào 2-11, ngày cầu cho các tín hữu đã qua đời, mọi gia đình Công Giáo - đặc biệt là những gia đình Công Giáo khá giả - đều dành một phần thức ăn và vật dụng để làm phúc cho những người nghèo. Công việc bác ái này được nhường lại cho các Đẳng Linh Hồn còn bị giam nơi Lửa Luyện Hình .. Và trong thời thơ ấu, đức cha Ercoli Attuoni đã từng sống nhờ của bố thí này, vì gia đình ngài thuộc một trong những gia đình nghèo nhất trong vùng.

Ercoli Attuoni sinh ngày 18-4-1875 tại Stazzema, thuộc tỉnh Lucca, miền Bắc nước Ý. Song thân là ông Cherubino và bà Gloriosa. Ercoli là một cậu bé ngoan ngoãn, chăm học và gan dạ. Nhưng gia đình cậu quá nghèo. Mỗi năm, vào ngày 2-11, Ercoli xách bị đi quanh làng để nhận của bố thí, đem về nuôi sống cả gia đình, đặc biệt trong mùa đông giá lạnh.

Những gia đình Công Giáo giàu có làng Stazzema chuẩn bị những bao hột bắp khô hoặc bột bắp, rồi để sẵn bên trong cửa ra vào. Khi các cậu bé của các gia đình nghèo đi qua, họ liền đổ vào bị cho các cậu. Bột bắp là thức ăn chính yếu của các gia đình nghèo miền Bắc nước Ý.

Giống như các cậu bé nghèo khác, Ercoli đi chân không, vai mang bị, vui tươi đến gỏ cửa các gia đình vừa giàu có vừa tốt bụng. Đó là gia đình các bà Frasia, Betta, Luisetta và Giovanna. Đi đến đâu, cậu Ercoli cũng được mọi người quý mến đổ đầy bột bắp vào bao. Cứ mỗi lần như thế, Ercoli lại lễ phép cám ơn và thưa:

- "Xin Thiên Chúa trả công bội hậu cho Ông Bà!”. Rồi khi nào túi ăn xin đã đầy ứ, Ercoli vui mừng mang bị nhanh chân trở về nhà. Khi đến cửa, cậu bé la thật lớn cho mẹ và cả nhà đều nghe:
- "Mẹ ơi, chiếc bị đầy kín miệng, không còn chỗ để bỏ thêm một hột nào nữa mẹ à!”.

Ngay chiều hôm đó, bà Gloriosa lấy bột bắp vừa xin được buổi sáng, chuẩn bị món ăn cho cả gia đình. Đây là thức ăn làm phúc .. dành cho các Đẳng Linh Hồn. Bù lại, ăn tối xong, toàn gia đình cùng nhau quỳ gối lần hạt Mân Côi và cầu nguyện cho tất cả các tín hữu đã qua đời.

Và gia đình nghèo nhưng đạo đức này - đã từng nhận lãnh ân phúc của các gia đình khá giả - được Chúa thương và chúc phúc. Cậu bé nghèo Ercoli được một số ân nhân trong làng giúp đỡ. Cậu xin gia nhập chủng viện và được chịu chức linh mục. Linh mục Ercoli Attuoni sau đó trở thành một giám mục tài đức, giúp ích cho mọi người. Nhưng đức cha Ercoli không bao giờ quên mình xuất thân từ một gia đình nghèo, sống nhờ của làm phúc vào ngày lễ cầu cho các Đẳng Linh Hồn. Do đó, đức cha luôn khuyến khích mọi gia đình Công Giáo giàu có đừng bao giờ bỏ quên thói quen lành thánh này. Một thói quen vừa sinh ích cho các Đẳng Linh Hồn nơi Lửa Luyện Hình vừa giúp đỡ các gia đình trong cơn túng bẫn. Đây là công việc bác ái rất đẹp lòng Chúa và được Chúa chúc lành.

.. "Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người .. Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: ”Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các con ngay từ thưở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các con đã cho ăn; Ta khát, các con đã cho uống; Ta là khách lạ, các con đã tiếp rước; Ta trần truồng các con đã cho mặc; Ta đau yếu, các con đã thăm nom; Ta ngồi tù, các con đã đến thăm” (Matthêô 25, 31-36).

(Evaristo Cardarelli, ”Mese di Novembre”, Edizioni Cantagalli, Siena, 1992, trang 55).

THÁNH NỮ PERPÉTUA VÀ CÁC ĐẲNG LINH HỒN

Thánh nữ Perpétua là vị tử đạo thời danh của Giáo Hội Công Giáo, thuộc dòng quý tộc ở Carthage, Bắc Phi. Gia đình thánh nữ được hồng ân lãnh nhận bí tích Rửa Tội, chỉ trừ người cha. Năm 203, Perpétua bị bắt cùng với đứa con thơ 8 tháng còn bú. Chính tay thánh nữ viết phần đầu những diễn tiến, hình khổ và chiến đấu trong thời gian giam cầm. Một người ẩn danh đã viết tiếp cuộc tử đạo của các vị anh hùng.

Thánh nữ Perpétua thuật chuyện trông thấy đứa em trai Dinocrate, 7 tuổi, chết trước đó không lâu và còn chịu thanh tẩy trong Luyện Ngục.

Mấy ngày sau khi bị kết án tử hình, trong lúc chúng tôi đang cùng nhau cầu nguyện bỗng tôi lớn tiếng gọi tên Dinocrate. Tôi kinh hoàng sực nhớ mình đã quên bẵng đứa em trai quá cố. Tôi âu sầu hồi tưởng cơn bệnh hiểm nghèo của em. Tôi hiểu rằng, từ giờ phút này trở đi, tôi xứng đáng cầu nguyện cho em và tôi có bổn phận phải cầu nguyện cho em. Tôi tức khắc cầu nguyện cho Dinocrate và xin Chúa thương xót Linh Hồn em.

Đêm hôm ấy, tôi trông thấy Dinocrate bước ra từ một nơi tăm tối, trong đó còn có nhiều người khác nữa. Em bị nóng bức và bị khát, mặt mũi bẩn thỉu và nhợt nhạt. Nơi mặt em, vẫn còn vết khủng khiếp gây tử thương. Dinocrate là em ruột tôi. Em chết lúc 7 tuổi vì bị ung thư nơi mặt. Cái chết của em làm mọi người hoảng sợ. Tôi đã cầu nguyện cho em. Lúc này đây, có khoảng cách quá lớn khiến chúng tôi không thể đến gần nhau. Nơi chỗ Dinocrate đứng, có một hồ đầy nước. Miệng hồ vượt quá đầu em. Em nhón cao gót, tìm hết cách để uống, nhưng không thể nào uống được. Tôi đau thắt ruột và cảm thấy thương em thật nhiều. Em bị khát nước, đứng cạnh hồ đầy nước, nhưng lại không thể nào uống nước được.

Chứng kiến đến đây tôi giựt mình thức giấc. Tôi hiểu rằng, em tôi đang chịu đau khổ, nhưng cùng lúc tôi tin chắc chắn lời cầu nguyện của tôi sẽ giúp ích em. Tôi tha thiết cầu nguyện cho em mỗi ngày, cho đến lúc chúng tôi bị di chuyển từ nhà tù sang sân vận động. Nơi đây, chúng tôi bị đem ra làm trò chơi để mua vui, nhân ngày sinh nhật của vua César Géta. Tôi tiếp tục cầu nguyện ngày đêm cho em. Tôi khẩn thiết kêu xin Chúa mau giải thoát em khỏi Lửa Luyện Hình.

Vào ngày bị mang xiềng xích, tôi trông thấy cảnh tượng sau đây.Tôi thấy nơi tôi đã thấy Dinocrate. Nhưng lần này em Dinocrate khoẻ mạnh, ăn mặc chỉnh tề và bình an. Nơi khuôn mặt, chỗ trước kia có vết thương, nay chỉ còn vết sẹo. Hồ nước cao lúc trước, nay miệng hồ hạ thấp xuống, ngang nơi thắt lưng Dinocrate, khiến em múc nước dễ dàng và uống liên tục. Trên miệng hồ có đặt sẵn chai nhỏ bằng vàng đầy nước. Sau khi uống đả khát, em đến bên hồ nước lấy nước vọc chơi, theo kiểu các trẻ em. Tôi giựt mình thức giấc. Tôi hiểu rằng hình khổ của em đã được đền xong.

“Ông Giuđa và các bạn chiến đấu của ông đi chôn cất những người chết. Đoạn ông quyên tiền, rồi gửi về thành Giêrusalem độ mười nghìn đồng bạc để xin dâng lễ đền tội, đây là một việc rất tốt đẹp và thánh thiện phát xuất bởi Đức Tin vào sự sống lại; vì nếu ông không nghĩ những người chết sẽ được sống lại thì cầu nguyện cho họ, ông sẽ cho là việc vô ích và dư thừa. Nhưng nếu ông cho rằng, một phần thưởng cao trọng đang chờ đợi những ai qua đời bằng yên sốt sắng, đó là một ý tưởng tốt lành và đạo đức, vì thế ông xin lễ đền tội cho những người đã chết để họ được tha thứ tội lỗi” (Sách Maccabê 2 12,43-46).

(Mgr. Victor Saxer, “Saints anciens d'Afrique du Nord”, T.P. Vaticana 1979, trang 46-47).