TỪ DO THÁI GIÁO ĐẾN CÔNG GIÁO

Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt


Năm 1915, một cậu bé do thái giáo, quốc tịch Pháp, 7 tuổi, lang thang khắp các nẻo đường thành phố Roma. Cậu thích thú ngắm nhìn quang cảnh đặc biệt của Kinh Thành muôn thưở. Cậu lần mò viếng thăm mọi nhà thờ, mọi đền thánh dâng kính Đức Mẹ. Lối kiến trúc, lối trang hoàng, nhưng nhất là nét thinh lặng, sự trầm tĩnh của các nhà thờ đã lôi cuốn, làm say mê tâm hồn nghệ sĩ của cậu bé. Rồi trong một nhà thờ Roma, có trưng bức họa Tổng Lãnh Thiên Thần Micae. Bức họa đẹp đến nỗi, từ đó cứ mỗi tối, cậu thường khẩn thiết cầu xin Chúa cho phép thiên thần Micae hiện ra với cậu, ít là một lần!

Cậu bé trên đây tên là Paul Misraki, sau này trở thành nhà sáng tác nhạc và chơi dương cầm nổi tiếng. Nhưng đối với giới công giáo, Paul Misraki nổi tiếng vì đã biết dùng trí thức và tài năng nghệ thuật của mình để khám phá ra Thiên Chúa và tin vào Ngài.

Paul Misraki sinh ngày 28-1-1908 tại Constantinople, Thổ Nhĩ Kỳ. Cha mẹ cậu là người Pháp gốc Ý. Khi thế chiến thứ nhất bùng nổ, ông bà trở lại Pháp sinh sống.. Năm lên 8 tuổi, Paul đã sáng tác điệu nhạc "La Joly", rồi năm 15 tuổi, điệu nhạc "La Ferme". Năm 20 tuổi, Paul sáng tác bốn bài ca được các nhà hát lớn của thủ đô Paris thời đó chú ý và trình diễn.
Cha mẹ của Paul Misraki theo Do Thái giáo, nhưng không thực hành đạo. Tuy nhiên, ông bà là những người ngay thẳng, luôn tìm kiếm sự thiện, sự thật và sự công chính. Ông bà kính trọng những khát vọng thao thức tôn giáo của con cái. Do đó, ngay thời thơ ấu, Paul đã đọc Kinh Thánh. Cậu biết rõ chuyện ông Adong, bà Evà, các tổ phụ Abraham, Isaac, Giacóp, Maisen và các Tiên Tri lớn nhỏ.. Nơi trường học, cậu khám phá ra mình không phải là tín hữu Kitô, vì cậu thường bị bạn bè cùng lớp chế nhạo: "Mày là thằng 'Giudêu'"!.

Năm 22 tuổi, Paul bắt đầu nổi tiếng vì tài chơi dương cầm và những bản nhạc do anh sáng tác. Paul du hành khắp Âu Châu để trình diễn ca nhạc. Năm 1934, không ai lại không biết đến kịch phẩm: "Mọi sự tốt đẹp, thưa bà Hầu Tước" của Paul Misraki.. Thế nhưng, mặc dầu danh tiếng nổi như cồn, Paul Misraki không cảm thấy cuộc đời hạnh phúc. Anh vẫn như người thiếu thốn, khao khát, tìm kiếm một cái gì đó. Năm 29 tuổi, 1937, Paul tình cờ đọc tác phẩm của nhà bác học Công Giáo Alexis Carrel: "L'homme cet inconnu - Con người, kẻ vô danh". Đối với Paul, tác phẩm chính thực là một mạc khải về con người. Từ đó anh bắt đầu thích nghiên cứu thuật xem tướng bằng chữ viết, khoa chiêm tinh và trò ảo thuật. Sau cùng, Paul may mắn khám phá ra được Phúc Âm, Thánh Toma Tiến Sĩ và Thánh Gioan Thánh Giá.

Tháng 7 năm 1939, Paul Misraki chính thức xin lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội và rước lễ lần đầu. Sau khi theo đạo Công Giáo, Paul đã gây ảnh hưởng tinh thần trên một người Đức theo Do thái giáo. Ông này trở lại Công Giáo rồi xin vào dòng các Cha Giảng Thuyết Thánh Đaminh.. Trong ba năm, từ 1942 đến 1945, Paul đi một vòng trình diễn ca nhạc nơi Nam Mỹ rồi New York và Hollywood. Khi trở lại Pháp, anh mới hay tin mẹ và nhiều người thân trong gia đình đã bị đưa vào trại tập trung của đức quốc xã và bị chết tại đó. Trong thời gian này, anh vẫn tiếp tục sáng tác các bài ca và những bản hòa tấu tôn giáo.

Tháng Giêng năm 1948, anh tham dự một tuần tĩnh tâm tại Saulchoir và quyết định từ bỏ thế gian, sự nghiệp để ẩn mình trong tu viện. Nhưng một linh mục khuyên anh nên ở lại giữa đời và làm việc tông đồ, làm chứng nhân cho Chúa trong môi trường ca nhạc kịch. Anh chấp thuận nghe theo lời khuyên của vị linh mục. Mùa Phục Sinh cùng năm, Paul Misraki gặp được một phụ nữ Công Giáo đạo đức. Hai người quen nhau rồi cùng nhau tiến đến hôn nhân. Từ tổ uyên ương hạnh phúc này, đã ra chào đời hai người con gái tên Martine và Stéphanie. Cũng chính tổ uyên ương hạnh phúc ấy đã gợi hứng cho Paul Misraki sáng tác một nhạc phẩm tuyệt diệu: "AVE MARIA - KÍNH MỪNG MARIA".

Bản thánh ca bày tỏ lòng tri ân trìu mến ông dâng lên Thiên Chúa và Trinh Nữ Rất Thánh Maria.

("LE CHRIST AU MONDE", 3+4/1991, trang 182-183).


Bấm vào đây trở về “Tin YÊU Và Hy Vọng Của Kitô Giáo”

Gương CHỨNG NHÂN