CUỘC ĐỜI THƠ ẤU CHỊ LUXIA SANTOS

Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt


... Ngày 13-5-1917, Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên với ba trẻ chăn chiên tại làng Fatima, nước Bồ Đào Nha. Đó là Luxia Santos, 10 tuổi; Phanxicô Marto, 9 tuổi và em gái là Giaxinta, 7 tuổi. Trong số ba trẻ chỉ duy nhất một trẻ còn sống. Đó là chị Luxia Santos hiện là nữ tu dòng Kín Cát-Minh. Chị Luxia sinh ngày 22-3-1907.

Ngày 13-5-2000 trong chuyến viếng thăm mục vụ Fatima / Bồ-đào-nha, Đức Thánh Cha Gioan Phaolo 2 đã tôn phong 2 anh em Phanxicô và Giaxinta Marto lên hàng Chân Phước (Á Thánh).

Đầu năm 1937, Đức Cha José Alves Correia da Silva (1872-1957), Giám mục giáo phận Leiria-Fatima, truyền cho chị Luxia kể lại cuộc đời chị và các lần Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, với mọi chi tiết chị còn nhớ. Đây là lý do xuất hiện ‘‘Hồi Ký” thứ hai của chị Luxia, trong đó, vì đức vâng lời, chị đơn sơ kể lại cuộc đời thơ ấu của chị. Hồi Ký kết thúc ngày 21-11-1937. Chị Luxia viết:

Trọng kính Đức Cha,

... ‘‘Chúa đã đoái nhìn đến phận thấp hèn nữ tì Chúa”, nên từ đây các dân tộc sẽ ca khen các công trình của Chúa Từ Bi!

Hình như Chúa nhân từ đặc biệt ban cho con ơn sớm biết dùng trí khôn, ngay từ lúc còn bé tí teo. Con nhớ đã ý thức hành động của mình khi còn được mẹ ẵm trên tay. Con cũng nhớ mình được ru ngủ bằng nhiều bài ca điệu hát khác nhau. Vì là em út của 5 chị gái và một anh trai, nên các anh chị con thường tranh nhau bồng bế và chăm sóc con. Cứ mỗi lần như thế, mẹ con lại ẵm lấy con. Nếu bận việc mẹ giao con cho ba con coi sóc. Thế là ba con bồng con, âu yếm hôn nựng con và vuốt ve con thật trìu mến.

Điều đầu tiên con học là kinh Kính Mừng MARIA, vì mẹ con có thói quen bồng con trên tay khi mẹ dạy giáo lý cho chị Carolina, lớn hơn con 5 tuổi. Hai chị khác lớn tuổi hơn, và vì con là con vẹt lập lại mọi sự, nên mẹ con thích cho hai chị mang con theo, bất cứ nơi nào hai chị đi. Hồi ấy, các chị con là ‘‘đầu não của giới trẻ trong vùng”.. Không lễ lạc ca vũ nào thiếu sự hiện diện các chị con. Vào các dịp lễ lớn luôn luôn có mục khiêu vũ. Đến mùa hái ô-liu, gần như ngày nào cũng có nhảy múa. Mẹ và các chị con được mời tham dự mọi lễ cưới trong làng. Cứ mỗi lần như thế các chị lại mặc áo và trang điểm thật đẹp cho con .. trông như con búp-bê!

Chiều Chúa Nhật, trọn giới trẻ trong làng tụ họp nơi sân nhà con, mùa hè dưới bóng mát ba cây vả um tùm, mùa đông trong mái hiên nhà. Các bạn trẻ ở lại suốt buổi chiều, chơi đùa và chuyện trò với các chị con. Vào dịp lễ Phục Sinh cuộc rút thăm trúng kẹo cũng diễn ra nơi sân nhà con. Con thường trúng kẹo nhiều hơn hết, vì nhiều người ‘‘giả vờ” dành phần trúng cho con, hầu làm vui lòng con.

Phần mẹ con, vào các buổi chiều Chúa Nhật đó, mẹ ngồi nơi cửa nhà bếp trông ra sân, như thế mẹ con có thể theo dõi tất cả những gì xảy ra bên ngoài. Khi thì mẹ đọc sách lúc thì mẹ trò chuyện với các dì các cô hoặc các bà hàng xóm. Mẹ con luôn giữ dáng điệu nghiêm trang thường ngày. Mọi người đều biết những gì mẹ con nói giống như lời Kinh Thánh và phải vâng lời mẹ tức khắc. Con chưa từng thấy người nào dám nói lời khiếm nhã trước mặt mẹ con. Hồi ấy có tiếng đồn chỉ mình mẹ đáng giá hơn tất cả các con gái mẹ gọp lại.

Con nhớ rõ nhiều lần nghe mẹ con nói:
- Mẹ không hiểu sao có nhiều người thích ngồi lê đôi mách nơi nhà người khác! Phần mẹ, không gì quí bằng ngồi nhà đọc sách. Có không biết bao điều tốt lành trong sách. Cuộc đời các thánh thật là tuyệt đẹp!

Chính trong bầu khí tràn đầy tình thương và trìu mến ấy mà con lớn lên cho đến năm 6 tuổi. Và để nói hết sự thật, thì cuộc đời bắt đầu vui tươi chào đón con. Nhất là lòng yêu thích khiêu vũ đâm rễ sâu trong con tim bé nhỏ của con. Con xin thú nhận với Đức Cha rằng, nếu THIÊN CHÚA Nhân Lành không ghé mắt từ bi trông coi con, hẳn ma quỉ đã lôi kéo con đi vào con đường hư mất trầm luân đời đời rồi!

Mẹ con có thói quen dạy giáo lý cho con cái, mùa hè vào những giờ nóng bức, mùa đông vào ban tối, sau bữa ăn, ngồi trước lò sưởi, trong lúc chúng con nướng và ăn hạt dẻ.

Vì gần đến ngày Cha Sở định cho các trẻ trong xứ Rước Lễ Trọng Thể lần đầu, mẹ con bèn nghĩ: con gái út mình vừa biết rõ giáo lý vừa tròn 6 tuổi, hẳn con nhỏ cũng có thể rước lễ lần đầu với chị nó. Nghĩ vậy nên mẹ cho con đi theo chị Carolina đến dự các buổi giáo lý Cha Sở dạy để chuẩn bị Rước lễ lần đầu. Con sung sướng đi học giáo lý với niềm hy vọng tràn trề: sớm được rước Chúa vào lòng lần đầu tiên. Cha Sở dạy giáo lý, ngồi nơi chiếc ghế đặt trên bục. Cha gọi con đến bên cạnh và khi trẻ nào đó không biết trả lời câu hỏi, Cha Sở bảo con trả lời thay, hầu làm cho đứa trẻ kia phải xấu hổ ..

Trước ngày Rước Lễ Vỡ Lòng, Cha Sở triệu tập tất cả các trẻ vào ban sáng, để quyết định trẻ nào có thể rước lễ lần đầu. Nói sao cho hết nổi buồn lớn lao của con, khi Cha Sở gọi con đến gần, vừa vuốt ve vừa cho biết con phải đợi đến năm 7 tuổi mới được rước lễ! Con bật khóc và giống như thể đang đứng bên mẹ con, con gục đầu trên hai đầu gối Cha Sở và khóc nức nở. Còn đang khóc thì Linh Mục được Cha Sở mời đến giúp giải tội, bước vào. Đó là Cha Francisco Rodriguez da Cruz (1859-1948). Cha Cruz hỏi tại sao con khóc. Khi Cha Sở cho biết lý do, Cha Cruz dẫn con ra phòng thánh khảo hạch con về giáo lý và về mầu nhiệm bí tích Thánh Thể. Xong Cha Cruz dẫn con đến cạnh Cha Sở và nói:
- Xin Cha Péna hãy để trẻ này rước lễ. Con bé biết rõ hơn những trẻ khác điều bé làm.
Cha sở không chấp thuận:
- Nhưng con nhỏ mới có 6 tuổi!
Cha Cruz trả lời:
- Không sao hết! Nếu Cha đồng ý tôi sẽ lãnh trách nhiệm.
Nghe vậy Cha Sở nói với con:
- Con thưa với mẹ con là Cha Sở cho phép con được rước lễ lần đầu ngày mai.

Niềm vui của con không thể nào tả hết. Con ra về vừa vổ tay reo mừng vừa chạy suốt quảng đường về nhà. Con hớn hở báo cho mẹ con biết tin vui. Tức khắc mẹ giúp con dọn mình xưng tội vào ban chiều. Trên đường đến nhà thờ con thưa với mẹ con muốn xưng tội với vị Linh Mục đến từ bên ngoài. Cha Cruz giải tội nơi phòng thánh, ngồi trên chiếc ghế.

Mẹ con quỳ gần cửa, nơi bàn thờ lớn, với các bà mẹ khác, đợi đến lượt con mình vào xưng tội. Nơi bàn thờ chính, trước Mình Thánh Chúa, mẹ con dặn dò con lần cuối cùng. Khi đến phiên mình, con quỳ gối dưới chân vị Linh Mục, người đại diện THIÊN CHÚA Nhân Lành, để khẩn cầu ơn tha thứ cho các tội lỗi của con. Xưng tội xong con thấy ai cũng cười hết. Mẹ gọi con và nói:
- Con không biết khi xưng tội phải nói thầm vì đó là điều bí mật sao? Ai cũng nghe con thú tội. Chỉ có phần sau cùng, con nói điều gì đó, không ai nghe được.

Trên đường về nhà mẹ con muốn dò biết điều mẹ gọi là ‘‘bí mật tòa cáo giải”. Nhưng mẹ con chỉ nhận được câu trả lời bằng cái im lặng tuyệt đối của con.

Giờ đây con xin vén mở điều bí mật của lần xưng tội đầu tiên đó. Vị linh mục tốt lành, sau khi nghe con nói, khuyên con vài lời:
- Con à, linh hồn con là đền thờ Chúa Thánh Thần. Con hãy gìn giữ linh hồn luôn trong sạch, hầu Chúa Thánh Thần có thể tiếp tục các hoạt động chí thánh của Ngài.

Nghe những lời này con cảm thấy nẩy sinh lòng kính trọng sâu xa đối với nội tâm linh hồn và con hỏi Cha giải tội xem con phải làm gì. Cha trả lời:
- Con hãy đến quỳ gối dưới chân bức tượng Đức Bà đằng kia kìa. Rồi với trọn lòng tin tưởng, con hãy xin Đức Mẹ chăm sóc con tim con, xin Đức Mẹ chuẩn bị lòng con xứng đáng rước Con Dấu Ái Mẹ vào ngày mai và xin Đức Bà gìn giữ lòng con cho một mình Chúa GIÊSU mà thôi.

Trong nhà thờ có mấy tượng Đức Mẹ. Nhưng vì các chị con có nhiệm vụ chăm sóc bàn thờ Đức Mẹ Mân Côi, nên con có thói quen cầu nguyện trước bức tượng này. Do đó lần này, lại một lần nữa, con đến quỳ cầu nguyện trước Đức Mẹ Mân Côi, để khẩn cầu Mẹ, với trọn lòng tha thiết, xin Mẹ gìn giữ con tim bé nhỏ con cho một mình THIÊN CHÚA. Chính vì lập đi lập lại nhiều lần lời cầu xin khiêm tốn này, với đôi mắt đăm đăm nhìn bức tượng, mà con có cảm tưởng tượng Đức Mẹ mĩm cười nhìn con với cử điệu tràn đầy nhân ái và tỏ dấu cho con biết Đức Mẹ nhậm lời con nài van. Lòng con tràn ngập niềm hạnh phúc đến độ con chỉ mấp máy được một lời.

Trọn buổi tối hôm đó, các chị con làm việc gấp rút để may cho con chiếc áo lễ trắng tinh với vòng hoa đội đầu. Phần con, vì quá vui mừng nên không thể nào chợp mắt được. Con thấy như thời gian đứng lại. Con không ngừng chỗi dậy đến bên các chị để hỏi xem trời sáng chưa và khi nào các chị thử áo, thử vòng hoa cho con, vv..

Sau cùng thì buổi sáng ngày hồng phúc cũng đến, nhưng 9 giờ sáng vẫn như còn trù trừ chưa muốn đến! Chị Maria dẫn con vào nhà bếp - lúc đó con đã mặc chiếc áo trắng tinh - để con xin lỗi cha mẹ con, hôn tay các ngài và xin các ngài chúc lành cho con. Nghi thức chấm dứt, mẹ con nhắn nhủ vài lời sau cùng. Mẹ con nói với con điều mẹ ước ao con xin cùng Chúa, một khi Chúa ngự vào lòng con, và rời con với câu nói: ‘‘Nhưng nhất là con hãy xin Chúa cho con trở thành vị thánh!” Lời này ghi khắc vào lòng con đến độ, đó là lời đầu tiên con thưa cùng Chúa, ngay khi con vừa rước Chúa ngự vào lòng. Mãi cho đến ngày hôm nay, con vẫn như còn nghe vang vọng tiếng mẹ con lập lại với con lời ấy ..

Con đến nhà thờ với các chị con và để áo trắng tinh của con khỏi bị dơ bẩn vì dính bụi đường, anh con liền bồng con trên tay. Vừa đến nhà thờ con vội chạy đến bên bức tượng Đức Bà Mân Côi và lập lại lời cầu con xin với Mẹ chiều hôm qua. Con quỳ yên đó chiêm ngắm nụ cười của Đức Mẹ vào ngày hôm trước mãi đến lúc các chị đến tìm con dẫn tới chỗ dành cho con, nơi hàng ngũ các trẻ em rước lễ lần đầu.

Có rất nhiều trẻ em rước lễ vỡ lòng ngày hôm đó. Chúng con xếp thành bốn hàng, từ cuối nhà thờ lên mãi tận gần cung thánh. Hai hàng trẻ nam và hai hàng trẻ nữ. Vì con nhỏ bé nhất nên được xếp gần các thiên thần, trên bậc cấp bàn rước lễ.

Thánh Lễ trọng thể bắt đầu và càng gần tới lúc rước lễ, tim con càng đập mạnh trong niềm trông đợi THIÊN CHÚA Chí Cao, sắp từ Trời ngự xuống kết hiệp với linh hồn bé nhỏ khốn cùng của con. Cha Sở đi giữa hai hàng trẻ em để trao Mình Thánh, Bánh các Thiên Thần. Con được hồng phúc rước lễ trước tiên. Khi vị Linh Mục bước xuống các bậc cấp bàn thờ, con có cảm tưởng tim con sắp nhảy ra khỏi lồng ngực. Nhưng ngay khi Cha Sở đặt trên môi con Bánh Thánh, con cảm nhận tức khắc niềm thanh thản và an bình sâu xa. Sự hiện diện của THIÊN CHÚA Chí Nhân trở thành rõ ràng đối với con, y như thể con nghe và trông thấy được Ngài bằng chính các giác quan thân xác con. Con thân thưa với Chúa lời khẩn cầu của con:
- Lạy Chúa, xin cho con trở thành vị thánh! Xin gìn giữ tim con luôn trong sạch, chỉ yêu mến duy nhất một mình Chúa!

Lúc đó, con có cảm tưởng THIÊN CHÚA Chí Nhân, tận nơi sâu thẳm lòng con, phán bảo con cách rõ ràng lời này:
- Ơn thánh Ta ban cho con ngày hôm nay sẽ mãi mãi sống động trong tâm hồn con và sẽ sinh hoa kết trái cho cuộc sống vĩnh cửu.
Con cảm nhận mình được biến đổi trong Chúa. Buổi cử hành phụng vụ kết thúc lúc gần một giờ trưa. Lý do vì các Linh Mục từ bên ngoài đến trễ, bài giảng Thánh Lễ quá dài và việc lập lại các lời hứa rửa tội kéo dài khá lâu. Mẹ con lo lắng đến tìm con, sợ con bị xỉu vì quá mệt và đói. Thế nhưng đối với con, con lại cảm thấy no nê Bánh các Thiên Thần, đến nỗi chính lúc đó con không thể nào uống hoặc ăn bất cứ thứ gì khác.

Kể từ ngày ấy, con đánh mất mọi thèm muốn và không còn bị lôi cuốn bởi các sự việc chóng qua trên cõi đời này. Con chỉ cảm thấy hoàn toàn thoải mái, mỗi khi rút lui vào nơi thanh vắng, ở đó một mình, con có thể nhớ lại những dịu ngọt con hưởng nếm vào ngày Rước Lễ Trọng Thể lần đầu. Nhưng các buổi thanh vắng như thế rất ít khi xảy ra, bởi lẽ con phải giữ trẻ do các bà hàng xóm gởi, trong lúc các bà ra đồng làm việc. Ngoài ra mẹ con hành nghề y tá. Người ta đến nhà xin mẹ con chẩn bệnh, hoặc khi người bệnh không đi được, người ta đến rước mẹ con tới nhà người bệnh. Mẹ con ở lại đó suốt ngày, có khi ở lại suốt đêm. Nếu bệnh tình không thuyên giảm, mẹ con sai các chị con đến canh người bệnh vài đêm, hầu người nhà bệnh nhân có thể nghỉ ngơi chút ít. Trường hợp bệnh nhân là bà mẹ gia đình có nhiều con nhỏ, mẹ con mang các trẻ nhỏ về nhà giao cho con giữ, để chúng không làm rộn người mẹ đang đau yếu.. Thế là con có nhiệm vụ canh giữ chúng đồng thời chuẩn bị tất cả vật dụng cần thiết cho việc dệt vải và thêu may trong nhà.

Chị em chúng con có rất nhiều việc phải làm, đặc biệt là dệt vải và may áo. Nhiều thiếu nữ trong làng đến nhà con học dệt và học may. Các thiếu nữ tỏ ra quý mến gia đình con và hay nói rằng: đối với họ, thời gian êm đẹp nhất của thời thơ ấu chính là lúc trải qua nơi gia đình con. Nhưng vì các chị con phải làm việc ngoài đồng vào các mùa gieo vãi hoặc gặt hái, nên các chị dệt vải và may áo vào ban tối. Sau bữa ăn chiều và buổi đọc kinh tối, mọi người bắt tay vào việc. Ai ai cũng có phận vụ riêng.. Chị Maria dệt vải. Cha con quấn chỉ cho đầy ống. Hai chị Teresa và Gloria cắt vải và may áo. Mẹ con xe len thành sợi. Chị Carolina và con, sau khi dọn dẹp nhà bếp, có nhiệm vụ đơm nút áo, vv.. Để khỏi buồn ngủ, anh trai con kéo đàn phong cầm, và tất cả chúng con hát nhiều bài khác nhau, dựa theo tiếng đàn. Các người hàng xóm đến thăm chơi với chúng con. Và mặc dầu chúng con làm rộn, không cho họ ngủ sớm, họ không trách chúng con, trái lại họ thường nói: lòng họ vui và bớt cáu kỉnh, khi nghe tiếng đàn tiếng hát của anh chị em chúng con. Nhiều lần con nghe các bà trong làng trầm trồ khen ngợi mẹ con:
- Bà thật có phúc vì được Chúa ban cho đàn con ngoan ngoãn dễ thương!

Vào thời kỳ nhất định trong năm, chúng con lại phải lột vỏ bắp, dưới ánh trăng. Người ta đặt con ngồi trên đỉnh đống bắp và có nhiệm vụ hôn tất cả mọi người hiện diện, mỗi khi xuất hiện một hột bắp có mầu đậm.

Thưa Đức Cha, con không biết sự kiện con kể cho Đức Cha nghe liên quan đến ngày Rước Lễ lần đầu, là thực tại rõ ràng hay đó chỉ là ảo tưởng trẻ con. Điều con biết rõ chính là chúng từng gây ảnh hưởng và còn tiếp tục có ảnh hưởng lớn lao trong việc linh hồn con kết hiệp với THIÊN CHÚA. Con không biết tại sao con lại kể cho Đức Cha nghe mọi chuyện thuộc về đời sống gia đình con, nhưng chính THIÊN CHÚA gợi hứng cho con viết như vậy. Chỉ mình THIÊN CHÚA biết tại sao Ngài làm thế. Có lẽ nhờ vậy mà Đức Cha có thể thấy rõ hơn sau này, con nhạy cảm như thế nào đối với những đau khổ THIÊN CHÚA gởi đến cho con, sau khi từng được toàn gia đình cưng chìu và vuốt ve như thế. Thêm vào đó, chính Đức Cha truyền cho con kể ra tất cả đau khổ Chúa xin con chấp nhận cũng như tất cả ơn lành Chúa ban cho con, theo lòng nhân hậu bao la của Chúa, nên con cảm thấy có bổn phận phải đơn sơ nói lại hết, không thêm không bớt. Ngoài ra, con an tâm vì con biết rằng, Đức Cha sẽ đốt những gì Đức Cha xét không cần thiết cho vinh quang THIÊN CHÚA và Trinh Nữ Rất Thánh MARIA.

... Thời gian êm ả trôi qua cho đến khi con tròn 7 tuổi. Mẹ con quyết định con phải chăn giữ đàn chiên gia đình. Cha và các chị con không đồng ý với quyết định của mẹ. Vì thương con là út nên cha và các chị muốn con được đặc ân không phải làm nghề chăn chiên. Nhưng mẹ con nhất định không nhượng bộ. Mẹ con nói:
- Nó cũng giống y như mọi người khác, vì Carolina đã 12 tuổi. Giờ đây Carolina có thể bắt đầu làm việc ngoài đồng hay học dệt, học may, nếu nó muốn. Vì thế, Luxia phải thay Carolina canh giữ đàn chiên!

Gia đình giao cho con nhiệm vụ chăn chiên. Tin đồn con sắp bắt đầu cuộc đời cô bé chăn chiên lan nhanh trong vùng, giữa các trẻ chăn chiên, và gần như mọi trẻ đều đến rủ con cùng đi chăn chiên với chúng. Con nhận lời và đồng ý với mọi trẻ để cùng lùa chiên qua các cánh đồng. Thế là ngày hôm sau, các cánh đồng quanh làng dầy đặc các trẻ chăn chiên với các đàn súc vật. Cả một rừng người và vật, nhưng con không cảm thấy thoải mái giữa tiếng ồn ào náo động ấy. Con liền chọn giữa đám mục đồng, ba trẻ gái làm bạn, rồi không nói gì với ai hết, bốn chúng con bàn nhau lùa chiên sang ăn cỏ ở cánh đồng phía kên kia. Ba trẻ gái con chọn là: Hai chị em Teresa Matias và Maria Rosa và bé Maria Justino.

Ngày tiếp theo, chúng con đưa chiên đến ngọn đồi tên ‘‘Cabeco”. Chúng con đi về sườn đồi hướng về phía bắc. Dưới chân đồi có khu đất trồng cây, trải dài cho đến đồng bằng, với các thứ cây: ô-liu, sồi, thông và sồi-xanh. Vào giữa trưa, chúng con dùng bữa. Sau đó, con rủ ba trẻ gái cùng lần hạt chung với con. Cả ba vui vẻ chấp nhận. Vừa bắt đầu lần hạt, bỗng chúng con trông thấy: lơ lửng trong không khí, bên trên các ngọn cây, một khuôn mặt giống như bức tượng bằng tuyết, mà tia sáng mặt trời làm cho trở thành trong suốt. Các bạn con sợ hãi hỏi con: ‘‘Cái gì vậy?” Con trả lời: ‘‘Không biết!”

Chúng con tiếp tục lần hạt, mắt đăm đăm nhìn lên gương mặt cho đến khi khuôn mặt biến mất, ngay lúc chúng con vừa lần hạt xong. Con theo thói riêng, không nói gì với ai hết. Nhưng khi vừa về đến nhà, các bạn con liền kể cho gia đình nghe biến cố vừa xảy ra. Tin đồn lan nhanh khắp vùng. Một ngày, lúc con vừa về đến nhà, mẹ con hỏi con:
- Nghe đây! người ta bảo con trông thấy ở ngoài đó cái gì ấy. Vậy con thấy cái gì vậy?
- Con không biết nữa!
Và vì không biết phải giải thích ra sao nên con nói tiếp:
- Cái gì giống như một người trùm cái chăn trắng.
Rồi muốn giải thích thêm là con không thể phân biệt rõ ràng hình nét, con bèn nói:
- Người ta không thấy mắt cũng chả thấy tay.
Nghe xong, mẹ con nhún vai khinh bỉ:
- Chuyện tào lao con nít!

Một thời gian ngắn sau đó, chúng con lùa chiên trở lại chỗ cũ thì cùng hiện tượng đó tái diễn, giống y như lần trước. Các bạn gái con lại kể cho mọi người nghe. Cách một thời gian, cùng hiện tượng ấy tái diễn. Đó là lần thứ ba mẹ con nghe người khác kể lại về một biến cố như vậy, mà chính con thì không nói gì cho ai nghe hết ở nhà. Mẹ gọi con đến tỏ dấu không bằng lòng, người tra hỏi:
- Xem nào! Các con nói là trông thấy cái gì vậy?
- Con không biết, má à, con không biết đó là cái gì!

Nhiều người bắt đầu chế nhạo chúng con. Và, kể từ sau khi rước lễ lần đầu, đôi lúc con tỏ ra tư lự, đắm chìm trong dĩ vãng, nhớ lại những gì đã xảy ra vào ngày rước lễ lần đầu, nên các chị con với dáng điệu khinh khi nhạo báng hỏi con:
- Em còn trông thấy cái hình người trùm chăn trắng nữa không?

Cử chỉ và lời nói khinh khỉnh làm con đau lòng rất nhiều, bởi vì cho đến lúc ấy, con chỉ toàn được nâng niu chìu chuộng. Nhưng đó là chuyện chưa thấm vào đâu, so với sau này. Con chưa biết điều gì Chúa dành cho con trong tương lai.

Vào cùng thời gian ấy hai em họ con Phanxicô và Giaxinta Marto xin cha mẹ cho phép đi chăn chiên. Con rời ba cô bạn gái và thay vào đó hai em Phanxicô và Giaxinta. Chúng con quyết định lùa chiên đến ăn cỏ nơi phần đất thuộc về cô dượng và cha mẹ con, để khỏi đi theo các trẻ chăn chiên khác trong vùng.

Vào một ngày đẹp trời con cùng hai em lùa chiên đến phần đất thuộc về cha mẹ con, nằm dưới chân đồi ‘‘Cabeco”, về hướng mặt trời mọc. Người ta gọi nơi này là ‘‘Chousa Velha”. Chính nơi đây Thiên Thần hiện ra cho ba chị em chúng con, chuẩn bị tâm lòng chúng con đón nhận các lần Đức Mẹ hiện ra sau này.

.. Thấm thoát con trải qua ba năm đầu tiên cuộc đời cô bé chăn chiên, từ năm lên 7 đến năm lên 10. Trong thời gian này, con có thể cả quyết rằng, gia đình con và ngay cả xứ đạo chúng con, đã hoàn toàn thay đổi. Cha Sở Péna đổi đi và Cha Boicinha đến thế. Cha Boicinha là Linh Mục nhiệt thành. Ngay khi nhận thấy trong xứ đạo có vài tập tục ngoại giáo như các cuộc khiêu vũ, ca hát, Cha Sở chống lại các tập tục xấu này, trong các bài giảng Thánh Lễ Chúa Nhật. Nơi công cộng cũng như chốn riêng tư, cha đều lợi dụng mọi dịp để đánh phá các tập tục xấu. Vừa khi nghe Cha Sở tốt lành giảng dạy như thế, mẹ con tức khắc ngăn cấm, không cho phép các chị con tham dự các buổi nhảy nhót vui chơi nữa. Và gương tốt của các chị con đã lôi kéo một số người khác, nên dần dần, các tập tục xấu ấy biến mất.

Trong thời gian này, hai chị lớn con rời nhà cha mẹ, đi lập gia đình. Cha con bị bạn bè xấu lôi kéo, rơi vào cảnh nghiện rượu, khiến gia đình con lâm cảnh nghèo túng, phải bán mất mấy đám đất. Trông thấy phương tiện sống còn của gia đình giảm dần, mẹ con quyết định cho hai chị Gloria và Carolina đi ở mướn cho người ta. Chỉ mình anh con ở lại nhà để chăm sóc ruộng vườn. Mẹ con lo việc trong nhà, phần con, con chăn giữ đàn cừu.

Mẹ con chìm đắm trong nổi sầu khổ. Mỗi khi chiều đến, chỉ còn lại ba mẹ con ngồi trước lò sưởi đợi cha con về để dùng bữa, và nhìn thấy chỗ trống các chị con rời nhà, mẹ con nói với giọng áo não:
- Lạy Chúa, giờ đây đâu còn niềm vui của mái ấm này nữa?
Mẹ con gục đầu trên chiếc bàn nhỏ cạnh đó và khóc ròng cay đắng. Anh con và con cũng khóc theo mẹ. Đấy là một trong những cảnh tượng buồn thảm nhất mà con từng chứng kiến. Con cảm thấy lòng bị xé nát vì sự vắng mặt của các chị và vì nổi buồn của mẹ con. Mặc dầu còn bé nhưng con hoàn toàn hiểu rõ hoàn cảnh đau thương của gia đình. Con liền nhớ lại lời Thiên Thần:
- Nhất là các em hãy chấp nhận với lòng tuân phục, các hy sinh mà Chúa sẽ gởi đến cho các em.

Con liền rút vào nơi thanh vắng để không làm tăng nổi buồn của con với nổi buồn của mẹ.. Chỗ con thích tìm đến là giếng nước nhà. Ở đó, quỳ gối gục đầu trên tấm đá che miệng giếng, con đổ không biết bao nhiêu giọt nước mắt và dâng lên THIÊN CHÚA các đau khổ của con. Thỉnh thoảng, Phanxicô và Giaxinta đến chơi và gặp thấy con trong trạng thái sầu khổ như vậy. Và vì con nghẹn ngào không nói nên lời, nên hai em cũng buồn lây và cùng khóc với con. Giaxinta liền đọc lớn tiếng lời nguyện dâng hiến:
- Lạy Chúa, chính để đền tạ và để cầu cho kẻ có tội được ăn năn trở lại mà chúng con xin dâng lên Chúa mọi nổi đau khổ và hy sinh này.

Các nổi buồn sầu khiến mẹ con lâm bệnh. Vì không còn làm việc được nữa nên mẹ con gọi chị Gloria về lo việc trong nhà. Mẹ con tìm thầy chạy thuốc, nhưng bệnh tình vẫn không thuyên giảm.

Chúng con ở trong hoàn cảnh đau thương này khi xảy đến ngày 13-5-1917. Hồi ấy, anh con bước vào tuổi thi hành nghĩa vụ quân dịch. Sức khoẻ anh con dồi dào nên không có lý do xin miễn dịch, vã lại lúc đó đang diễn ra thế chiến thứ nhất. Vì sợ không còn ai lo việc đồng áng nên mẹ con gọi chị Carolina về nhà. Tuy nhiên, người đỡ đầu anh con đã can thiệp và anh con được miễn dịch. THIÊN CHÚA nhân lành đã trút bỏ cho mẹ con nổi lo lắng sầu khổ này.

Trọng kính Đức Cha,

Con xin phép không mô tả lần Đức Mẹ hiện ra ngày 13-5-1917, vì Đức Cha đã biết rõ rồi. Con chỉ xin ghi lại đây lời Đức Mẹ nói với chúng con mà chúng con còn giữ kín. Ngày hôm ấy, sau khi cho biết chúng con sẽ được lên Trời, Đức Mẹ hỏi chúng con:
- Các con có bằng lòng dâng mình cho Chúa, để chịu đựng hết mọi đau khổ Ngài muốn gởi đến cho các con, hầu đền bù mọi tội lỗi xúc phạm đến Chúa và nài xin Chúa ban ơn hoán cải cho các tội nhân không?
Hai em Phanxicô, Giaxinta và con, chúng con đồng thanh trả lời:
- Thưa có, chúng con vui lòng chấp nhận.
Đức Mẹ liền nói:
- Vậy thì các con sẽ phải chịu nhiều đau khổ, nhưng ơn Chúa sẽ nâng đỡ các con.

Ngày 13-6-1917, giáo xứ chúng con mừng lễ thánh Antôn. Theo thói quen, ngày hôm ấy con phải lùa chiên ăn cỏ thật sớm để đến 9 giờ phải lùa chiên về chuồng và đi dự lễ. Mẹ cũng như các chị biết rõ con rất thích dự lễ, nên nói với con:
- Mẹ và các chị đợi xem em có bỏ lễ để đi đến ‘‘Cova da Iria” nói chuyện với Bà Kia không!
Ngày hôm ấy, không ai thèm nói với con lời nào. Người ta xử với con như thể muốn nói:
- Mình để yên, xem thử con bé sẽ làm gì!

Ngay từ sớm tinh sương, con lùa chiên đi ăn cỏ với dụng ý sẽ lùa chiên về chuồng lúc 9 giờ để chuẩn bị đi lễ lúc 10 giờ, sau đó sẽ đến ‘‘Cova da Iria”. Nhưng vừa lúc mặt trời mọc, anh con gọi con về nhà vì có nhiều người muốn nói chuyện với con. Anh con thay con giữ chiên, còn con thì về nhà xem mấy người kia muốn gì. Đó là nhóm người đến từ các làng lân cận, họ muốn cùng con đi đến đồi ‘‘Cova da Iria”. Con bảo còn quá sớm nên mời họ cùng đi lễ 8 giờ sáng với con, sau đó, con trở về nhà. Nhóm người này nhẫn nhục chờ đợi con ngoài sân, ngồi dưới bóng các cây vả.

Mẹ và các chị con luôn giữ thái độ khinh khi, điều này khiến con rất đau khổ, hơn cả những lời nhục mạ! Khoảng 11 giờ, con đến nhà Phanxicô và Giaxinta để gọi hai em cùng đi đến đồi ‘‘Cova da Iria”, đợi chờ giây phút Đức Mẹ hiện ra. Có đông người đi theo và hỏi chúng con nhiều điều. Ngày hôm ấy, con rất buồn vì thấy mẹ con quá âu sầu. Bằng mọi giá, mẹ muốn bắt buộc con thú nhận đã nói dối. Con rất muốn làm vui lòng mẹ nhưng không biết phải làm cách nào, mà không khỏi nói dối. Ngay từ lúc còn nằm trong nôi, mẹ con đã thông truyền cho con cái niềm ghê tởm đối với việc nói dối, và mẹ con trừng phạt nghiêm khắc những đứa nào dám nói dối. Mẹ con nói:
- Bao giờ mẹ cũng thành công trong việc buộc các con mẹ phải nói thật. Chẳng lẽ bây giờ mẹ lại chịu thua, để yên cho con nhỏ út nói dối sao? Mà lại dám bịa đặt một chuyện tầy trời như vậy, lừa dối không biết bao nhiêu người!
Sau khi than van như thế, mẹ con quay sang con và nói:
-Con phải chọn một trong hai. Hoặc là con thú nhận với mọi người là con nói dối. Hoặc là mẹ sẽ giam con trong phòng kín, nơi không có tia sáng mặt trời chiếu vào. Đã có bao nhiêu nổi sầu khổ rồi chưa đủ sao, bây giờ lại còn thêm nổi sầu to tát này nữa!
Các chị con hùa bè với mẹ con và chung quanh con, chỉ toàn bầu khí khinh khi nhạo báng!
Con nhớ lại thời thơ ấu vàng son và cay đắng tự hỏi:
- Đâu rồi những vuốt ve trìu mến gia đình dành cho mình cách đây không lâu?
Niềm an ủi duy nhất của con là khóc ròng trước mặt Chúa và dâng lên Ngài hết mọi hy sinh của con.

Ngày 13-6 hôm ấy, khi hiện ra, Đức Mẹ như đoán được những gì xảy ra nên nói với con:
- Con buồn lắm phải không? Nhưng đừng ngã lòng. Mẹ sẽ không bao giờ bỏ rơi con. Trái Tim Vẹn Sạch Mẹ sẽ là nơi con nương ẩn và là đường dẫn đưa con đến cùng THIÊN CHÚA.
Giaxinta khi thấy con khóc liền nói với con:
- Chị đừng khóc. Chắc chắn đó là hy sinh mà Thiên Thần bảo Chúa sẽ gởi đến cho chúng ta. Vậy thì, chị chịu đau khổ để đền tạ và để đưa các tội nhân trở về cùng Chúa.

... Lúc đó Cha Sở nghe biết những chuyện xảy ra, bảo mẹ con đưa con đến gặp Cha. Mẹ con thở phào nhẹ nhõm vì nghĩ rằng: Cha Sở sẽ lãnh phần trách nhiệm về các biến cố đó. Mẹ con nói với con:
- Ngày mai, chúng ta đi lễ sớm. Sau đó, mình sẽ đến nhà Cha Sở. Cầu cho Cha Sở buộc con nói sự thật bằng mọi giá. Rồi Cha trừng phạt con cách nào tùy ý Cha. Điều quan trọng là con thú nhận đã nói dối, như thế mẹ sẽ hài lòng biết bao!

Các chị con cũng lại hùa về phe mẹ con và bịa đặt đủ điều, với chủ ý làm con sợ hãi khiếp kinh về cuộc gặp gỡ sắp diễn ra với Cha Sở. Con nói cho hai em Phanxicô và Giaxinta biết những gì xảy ra nơi nhà con. Hai em trả lời:
- Chúng em cũng sẽ đến nhà Cha Sở. Cha đã bảo mẹ dẫn chúng em đến gặp Cha.
Nhưng không thấy mẹ chúng em nói gì. Đành phải đợi vậy. Nếu người ta đánh đập chúng ta, chúng ta sẽ chịu đau khổ vì lòng mến Chúa và vì các tội nhân!

Ngày hôm sau, con theo mẹ đến nhà Cha Sở. Trên đường đi, mẹ không thèm nói với con lời nào. Con thú thật là con run rẩy chờ đợi những gì sắp xảy ra. Trong lúc tham dự Thánh Lễ, con dâng cho Chúa đau khổ của con. Rồi hai mẹ con đến nhà Cha Sở. Vừa bước lên bậc cấp, mẹ con quay lại nói với con:
- Đừng làm khổ mẹ nữa. Bây giờ hãy thú với Cha Sở là con đã nói dối, để Chúa Nhật tuần tới, Cha có thể nói với mọi người trên tòa giảng rằng: tất cả chỉ là chuyện bịa đặt. Như vậy, mọi chuyện chấm dứt. Con nghĩ xem có đúng không? Ai mà lại rủ nhau chạy đến đồi ‘‘Cova da Iria” để cầu nguyện trước một cây sồi-xanh!

... Chúng con bước vào phòng làm việc của Cha Sở. Cha Sở ra hiệu cho mẹ con ngồi xuống ghế và bảo con đến gần bàn làm việc. Khi thấy Cha Sở tra hỏi con cách bình tĩnh và hết sức nhẹ nhàng, con vô cùng ngạc nhiên. Tuy nhiên con vẫn dọn mình chờ đợi những gì sắp xảy ra. Cuộc thẩm vấn thật tỉ mỉ, con dám nói thêm là vô cùng khổ sở. Buổi thẩm vấn kết thúc, Cha Sở giảng cho con nghe bài ngắn:
-Đối với Cha thì hình như đây không phải là mặc khải đến từ Trời Cao. Bởi vì, thông thường, khi sự kiện như thế xảy ra, Chúa bảo linh hồn Ngài thông truyền ơn lạ phải đến gặp Cha giải tội hoặc Cha Sở, trình cho các ngài biết mọi sự. Nhưng trẻ nhỏ này trái lại, chỉ tìm cách lẩn trốn. Như vậy, đây có thể là chuyện bịa đặt của ma quỷ. Chúng ta chờ đợi xem sao. Tương lai sẽ trả lời cho chúng ta biết phải nghĩ gì.

Lời Cha Sở làm con đau khổ chừng nào, chỉ mình Chúa biết rõ, bởi vì, chỉ duy nhất mình Chúa mới có thể đi vào tận thẳm sâu lòng con. Thế là con bắt đầu hồ nghi tự hỏi: phải chăng những cuộc hiện ra chỉ là trò chơi của ma quỷ, chúng muốn cho con mất linh hồn bằng cách này? Và bởi vì con thường nghe nói ma quỷ luôn luôn mang lại chiến tranh và hỗn loạn, nên con bắt đầu thấy là đúng, bởi vì, kể từ khi con được trông thấy các hiện tượng lạ, thì niềm vui và an bình cũng biến mất nơi gia đình con. Kể sao cho xiết nổi sầu khổ của con!

Con tỏ bày cho Phanxicô và Giaxinta biết nghi ngờ dằn vặt của con. Giaxinta trả lời:
- Không! Đây không phải là ma quỷ! Không! Người ta bảo ma quỷ rất xấu xí và nó ở dưới lòng đất, trong hỏa ngục. Trong khi Bà Này tuyệt đẹp! Rồi chúng mình thấy Bà bay lên Trời!

Chúa dùng lời em Giaxinta nói để làm giảm bớt nổi nghi ngờ của con. Nhưng mỗi ngày trôi qua, con mất đi lòng nhiệt thành thực hành hy sinh, hãm mình và con đâm ra do dự không biết có nên thú nhận mình đã nói dối để chấm dứt mọi chuyện rắc rối không. Giaxinta và Phanxicô nói với con:
- Chị không được làm vậy. Chị không thấy làm như thế tức là chị nói dối sao? Mà nói dối là phạm tội!

Trong trạng thái tâm hồn như vậy, con lại nằm mơ, và giấc mơ càng làm tăng thêm những u tối của tâm trí con. Con mơ thấy một tên quỉ, - cười nhạo đắc chí vì đã lừa dối được con -, đang dùng hết sức lực để lôi con xuống hỏa ngục. Khi thấy mình ở giữa nanh vuốt của quỉ dữ, con cất tiếng kêu cầu Đức Bà cứu giúp. Con kêu to đến nỗi làm mẹ con thức giấc. Mẹ con lay con tỉnh dậy và hỏi con có chuyện gì thế. Con không nhớ đã trả lời cho mẹ con như thế nào. Điều con nhớ, chính là, đêm ấy, con không tài nào ngủ lại được, vì con quá sợ hãi. Giấc mơ để lại nơi tâm trí con áng mây thực sự hãi hùng và nổi buồn sầu khôn tả. Niềm an ủi duy nhất của con là được ở riêng một mình, trong một xó vắng vẻ, nơi đó con được khóc lóc thỏa thuê. Ngay cả việc bè bạn với hai em họ con cũng bắt đầu khiến con chán ngán! Và con tìm cách xa lánh chúng! Thiệt tội nghiệp cho hai em! Các em thường tìm kiếm con và cất tiếng gọi con, nhưng con thì núp vào nơi kín, chỗ mà các em không ngờ con lại trốn vào đó!

Ngày 13-7-1917 đến gần và con tự hỏi không biết có nên đến nơi Đức Mẹ hiện ra không. Con nghĩ: ‘‘Nếu là ma quỷ, thì đến đó xem nó làm gì! Nếu có ai hỏi tại sao con không đi, con sẽ trả lời vì con sợ ma quỉ hiện ra nên không đi. Mặc kệ Phanxicô và Giaxinta muốn làm gì thì làm! Phần con, con sẽ không đến đồi Cova-da-Iria nữa!”

Quyết định xong, con khư khư giữ vững quyết định. Buổi chiều ngày 12, dân chúng bắt đầu tuốn đến tham dự biến cố vào ngày hôm sau. Con gọi Phanxicô và Giaxinta đến thông báo quyết định của con. Hai em nói với con:
- Phần chúng em, chúng em sẽ đi đến đó. Bà Ấy đã xin chúng ta như thế.
Giaxinta sẵn sàng nói chuyện với Bà Đẹp, nhưng cảm thấy khổ sở vì chuyện con không đi và cô bé bỗng bật khóc nức nở. Con hỏi tại sao, em trả lời:
- Vì chị không chịu đến đó.
Con khẳng định:
- Không, chị không đi. Nếu Bà Ấy hỏi, em trả lời chị không đến vì chị sợ đó là chuyện ma quỉ.
Nói xong, con bỏ hai em đứng đó và chạy tìm nơi trú ẩn kín đáo, để khỏi trả lời những người tìm kiếm tra hỏi con. Mẹ con tưởng con chạy chơi với lũ trẻ trong xóm, nhưng con, con lại trốn nơi hóc đá, gần đất nhà con. Vì thế, vào ban chiều khi con trở về nhà, mẹ con nói:
- Đúng là con bé thánh-rởm! Hễ không đi chăn chiên thì nó long nhong chạy chơi suốt ngày, không ai tìm ra được nó.

Ngày hôm sau, khi gần đến giờ chúng con phải lên đường, con bỗng bị sức mạnh khác thường thúc đẩy phải ra đi, một sức mạnh mà con không cưỡng lại được. Con lên đường và đi ngang nhà dượng con, xem Giaxinta có đó không. Con thấy em còn ở trong phòng với Phanxicô. Cả hai đang quì nơi chân giường và khóc. Con hỏi:
- Ủa, hai em không đi sao?
- Không có chị, hai em không dám đi. Thôi, chị đi với chúng em đi!
- Được, bây giờ chị đi đây.

Với nét mặt tươi tắn hai em ra đi với con. Dân chúng đợi chúng con trên đường rất đông. Chúng con phải khó nhọc lắm mới tới được chỗ hẹn. Chính ngày hôm ấy, Đức Mẹ mặc khải cho chúng con biết bí mật. Sau đó, để khơi nóng lòng nhiệt thành của con bị đông lạnh, Đức Mẹ nói:
- Các con hãy hãm mình cầu cho kẻ có tội và hãy thường xuyên thưa cùng Chúa GIÊSU - đặc biệt mỗi lần các con làm một hy sinh: ‘‘Ôi lạy Chúa GIÊSU! Đó là vì lòng yêu mến Chúa, để xin ơn hoán cải cho các tội nhân và để đền bù các tội lỗi xúc phạm đến Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ MARIA!”

Nhờ ơn Chúa, lần Đức Mẹ hiện ra này xóa tan mây đen vây phủ linh hồn con và con tìm lại niềm an bình. Trong khi đó, mẹ con càng ngày càng tỏ ra âu sầu phiền não, vì trông thấy đám đông cứ ồ ạt tuốn đến nơi Đức Mẹ hiện ra, mỗi lúc một nhiều. Mẹ con cằn nhằn: ‘‘Họ đến đó chắc chắn vì bị các con lường gạt, mà mẹ thì không biết phải làm thế nào để đánh tan sự lường gạt ấy”.

Có một người đàn ông rất thích tỏ ra khinh khi, thóa mạ và đôi lúc đánh đập chúng con nữa. Một ngày, ông hỏi mẹ con với giọng chế diễu:
- Dì Maria Rosa ơi, dì nghĩ sao về việc con gái dì được trông thấy Đức Mẹ?
Mẹ con trả lời:
- Không biết nữa! Theo tôi thì nó chỉ là đứa nói dối, lừa gạt phân nửa thiên hạ! Ông liền hạ thấp giọng:
- Dì nói khẽ chứ! Nếu không, có người nghe và giết nó. Cháu nghĩ có người chỉ mong giết chết cô bé cho xong!
Mẹ con nói lớn:
- Chả sao cả! Điều quan trọng là làm thế nào bắt buộc nó nói thật! Phần tôi, tôi luôn nói thật, cho dù phải nói ngược lại với con cái hoặc với người khác.

Và đúng như vậy. Mẹ con luôn nói thật, ngay cả khi phải chịu thiệt thòi. Chúng con, những đứa con của mẹ, chúng con phải ghi ơn mẹ con vì gương lành thánh thiện này.

Một ngày, mẹ con nhất định buộc con thú nhận đã nói dối. Để lệnh truyền có hiệu quả, mẹ con quyết định đưa con đến nhà Cha Sở lần nữa, để con xưng thú đã nói dối rồi xin Cha Sở tha thứ và ra hình phạt tùy ý Cha. Lần này, cuộc tấn công quả tàn bạo và con không biết phải xử sự ra sao. Trên đường đi, mẹ con vừa ngăm đe vừa dụ dỗ con. Đáp lại mọi lời mẹ, con chỉ biết run rẩy nói:
- Nhưng thưa má, làm sao con có thể quả quyết con không trông thấy, khi mà con đã trông thấy thật?
Nghe con nói thế, mẹ con nín thinh. Trước khi bước chân vào nhà Cha Sở, mẹ con căn dặn lần cuối cùng:
- Con nghe rõ đây. Điều mẹ muốn là con phải nói thật. Vậy thì, nếu con đã thấy, cứ nói con đã thấy. Bằng không, con phải nhận tội đã nói dối!

Cha Sở tiếp hai mẹ con con thật nhã nhặn. Ngài tra vấn con thật nghiêm túc và cặn kẽ khéo léo đặt nhiều câu hỏi, xem con nói thật hay nói dối. Sau cùng, khi đưa hai mẹ con ra cửa, Cha Sở chỉ nhún vai như muốn nói:
- Chả biết phải cư xử ra sao trong một trường hợp như thế này!

Vài ngày sau, dượng và ba con nhận lệnh từ chính quyền quận, truyền đưa cả ba chúng con ra trình diện. Dượng con phải dẫn hai em Phanxicô và Giaxinta. Ba con dẫn con. Trụ sở chính quyền quận nằm ở tận Vila Nova de Ourem, cách Fatima đến 15 cây số. Hồi ấy, phương tiện di chuyển: hoặc đi lừa hoặc đi bộ. 15 cây số quả là đoạn đường chông gai đối với ba đứa con nít như chúng con. Dượng con phản ứng ngay:
- Tôi sẽ đích thân đến gặp chính quyền, xem họ muốn gì, nhưng không mang hai đứa nhỏ theo. Chúng không quen đi bộ cũng chưa biết cỡi lừa. Vã lại, tôi không đem trình diện tòa án hai đứa con nít chưa tới 10 tuổi!
Ba con phản ứng ngược lại. Người nói:
- Phần tôi, tôi đưa con gái tôi đi. Chính nó phải trả lời trước tòa án, chứ tôi, tôi chả tin gì mấy chuyện ấy. Nếu nó nói dối, nó đáng bị trừng phạt!

Ngày hôm sau, từ sáng tinh sương, người ta đặt con lên lưng lừa, có dượng và ba con tháp tùng. Điều làm con đau lòng nhất, chính là thái độ dửng dưng của ba má con đối với con, ngược với cách cư xử bao che đầy trìu mến của cô dượng con đối với hai em Phanxicô và Giaxinta. Con còn nhớ rõ suy tư của con ngày hôm ấy. Suốt cuộc hành trình, con miên man với ý nghĩ cay đắng: ‘‘Thật khác xa giữa thái độ của ba má và cô dượng. Cô dượng đích thân bảo vệ con cái. Còn ba má mình bỏ mặc con với gian nguy, để người ta muốn đối xử ra sao tùy ý!” Mặc dầu vô cùng tủi thân nhưng con cũng tự nhủ: ‘‘Hãy nhẫn nhục. Như thế mình được hạnh phúc chịu đau khổ vì tình yêu Chúa và để cầu cho các tội nhân được ơn ăn năn trở lại”. Nhờ nghĩ thế con tìm được niềm an ủi trong mọi lúc.

Nơi trụ sở, con được chính ông Quận Trưởng khảo cung, trước mặt dượng con, ba con và nhiều người khác. Ông tra hỏi tỉ mỉ và buộc con tỏ cho ông biết về bí mật Đức Mẹ truyền giữ kín cũng như phải hứa không trở lại Cova da Iria, nơi Đức Mẹ hiện ra nữa. Để thuyết phục con, ông ta dùng đủ cách. Dỗ ngọt có, ngăm đe có. Thấy không hiệu quả, ông cho con ra về, nhưng dõng dạc tuyên bố:
- Thế nào tôi cũng thành công, ngay cả việc phải chém đầu con bé!
Rồi ông quay sang giảng cho dượng con một bài, vì đã không tuân lệnh mang theo Phanxicô và Giaxinta.

Hồi ấy, trong gia đình con thêm một chuyện khác - và người ta gán trách nhiệm cho con - khiến con bị dằn vặt, đau khổ rất nhiều. Cova da Iria là phần đất thuộc quyền sở hữu ba má con. Dưới chân đồi có khoảng đất khá mầu mỡ, có thể trồng bắp và nhiều loại rau cỏ khác nhau. Trên sườn đồi có vài cây ô-liu, cây sồi xanh và sồi. Thế nhưng từ ngày có cuộc Đức Mẹ hiện ra, dân chúng đổ xô về đó, khiến gia đình con không thể trồng trọt gì được nữa. Người đi bộ, kẻ đi lừa, dẫm nát rau cỏ, làm hại cây cối. Mẹ con than phiền về những mất mác này và dằn mặt con:
- Phần mày, khi nào muốn ăn thứ gì, đi xin Bà Kia mà ăn!
Mấy chị con cũng mỉa mai phụ họa thêm:
- Em hả, bây giờ em sẽ chỉ được ăn những gì người ta trồng nơi đồi ‘‘Cova da Iria” mà thôi!

Lời lẽ trên đây xé nát ruột gan và gây kinh hoàng, khiến con không dám giơ tay lấy một mẫu nhỏ bánh mì để ăn. Riêng mẹ con, để buộc con nói thật - như lời mẹ con vẫn rêu rao - đôi lúc không ngại dùng đến thanh cũi đang cháy hoặc cán chổi, để đánh con. Nhưng vì tấm lòng từ mẫu, mẹ con lại cùng lúc tìm cách chăm sóc sức khoẻ cho con và tỏ ra ái ngại khi thấy con mỗi ngày một gầy guộc với nước da xanh xao. Mẹ con lo lắng sợ con ngã bệnh.

Giờ đây, hiểu rõ tình cảnh mẹ con lúc đó, con thật lòng thông cảm với mẹ con. Thật ra, mẹ con có lý khi xét con bất xứng trước đặc ân cao cả như thế. Do đó mẹ nghĩ con đã nói dối. Phần con, nhờ ơn trọng đại Chúa ban, con không bao giờ oán hận hoặc phản loạn chống lại cách mẹ con cư xử bất công với con. Nhờ Thiên Thần đã báo trước THIÊN CHÚA sẽ gởi đến cho con nhiều đau khổ, nên con luôn luôn xem tất cả những gì xảy đến trong cuộc đời con, đều do thánh ý THIÊN CHÚA định liệu. Lòng yêu mến, sự ngưỡng mộ và lòng kính trọng, con dành cho mẹ con, vẫn tiếp tục gia tăng với thời gian, y như thể con được mẹ con nâng niu chìu chuộng. Và giờ đây, con lại càng cảm thấy ghi ơn mẹ con hơn nữa, vì đã cư xử với con như vậy, giống như mẹ con đã dưỡng dục con khôn lớn nên người, với toàn cưng chìu ve vuốt.
Con nhớ trong thời gian này, Cha Sở Formigão (1883-1958) đến gặp con lần đầu để tra vấn. Cuộc hỏi cung vô cùng nghiêm chỉnh và tỉ mỉ. Con rất quý trọng Cha vì Cha nói với con về phương thế tập luyện nhân đức. Cha cho con xem ảnh thánh nữ Agnès rồi nói với con về cuộc tử đạo và khuyên con nên bắt chước gương lành của thánh nữ. Từ đó, Cha trở lại hàng tháng để điều tra và mỗi lần như thế, Cha đều nhắn nhủ con vài điều, thật hữu ích cho đời sống thiêng liêng của con.
Một ngày, Cha Sở Formigão nói với con:
- Con à, con có bổn phận yêu mến Chúa thật nhiều, vì những ơn lành trọng đại Ngài ban cho con!
Câu nói khắc sâu trong linh hồn con đến độ, kể từ giây phút ấy, con có thói quen lập đi lập lại lời nguyện sau đây:
- Lạy Chúa là THIÊN CHÚA con, con yêu mến Chúa và cảm tạ Chúa vì mọi ơn lành Chúa ban cho con.

Con thuật cho hai em Phanxicô và Giaxinta biết lời nguyện tắt này, khiến hai em cũng yêu thích và bắt chước con đọc thường xuyên. Thỉnh thoảng, trong những lúc đang hăng say nô đùa, Giaxinta bỗng ngừng lại nhắc con:
- Chị có nhớ thưa với Chúa là chị yêu mến Ngài nhiều lắm, vì mọi ơn lành Ngài ban cho chị không?

.. Rồi đến ngày 13-8. Dân chúng từ các nơi lũ lượt tuốn về từ hôm trước. Ai ai cũng muốn nhìn mặt, hỏi chuyện và nhờ chúng con dâng lên Đức Bà các ý chỉ cầu xin của họ. Chúng con ở giữa đám đông y như quả banh, được chuyền từ tay người này sang người khác. Mỗi người đều tìm cách kéo chúng con về phía mình để hỏi, nhưng lại không để cho chúng con có giờ trả lời. Giữa những xôn xao náo động đó, một lệnh chính quyền được chuyển đến. Ông Quận trưởng truyền ba con phải dẫn con về nhà cô dượng con ngay. Ông đang đợi ở đó. Khi con đến, ông Quận ngồi trong phòng với hai em Phanxicô và Giaxinta. Ông tra hỏi và tìm cách dụ dỗ chúng con tiết lộ bí mật Đức Mẹ truyền giữ kín. Ông cũng buộc chúng con hứa không đến đồi Cova da Iria nữa. Thấy không thể nào khiến chúng con tuân lệnh, ông truyền mang ba chúng con đến nhà Cha Sở, rồi đưa cả ba về giam tại Quận.. Suốt trong thời gian bị cầm tù, điều làm cho hai em Phanxicô, Giaxinta và con, đau lòng nhất, chính là thái độ bỏ rơi của cả hai phía cha mẹ chúng con.

Vài ngày sau khi Đức Mẹ hiện ra lần thứ tư vào Chúa Nhật 19-8-1917, trên đường lùa chiên ra đồng ăn cỏ, con bỗng trông thấy đoạn dây thừng rơi từ chiếc xe bò, nằm dưới đất. Con cúi xuống nhặt và nghịch ngợm quấn chung quanh cánh tay để chơi. Chẳng mấy chốc con để ý thấy sợi dây thừng cọ sát làm cho đau. Con nói với hai em Phanxicô và Giaxinta:
- Xem kìa, sợi dây này làm đau lắm. Mình có thể quấn dây ngang thắt lưng và dâng cho Chúa hy sinh chịu đau.

Tội nghiệp, hai em chấp nhận tức khắc đề nghị và chúng con đồng ý chia sợi dây làm ba. Sợi dây vừa to vừa cứng lại bị chúng con quấn chặt, nên dụng cụ hãm xác này làm chúng con đau lắm. Bé Giaxinta đôi lúc nhỏ vài giọt nước mắt xuýt xoa, vì sợi dây làm cô bé quá đau. Nhiều lúc thấy tội nghiệp, con bảo em tháo dây ra, nhưng em cương quyết trả lời:
- Không! Em muốn dâng hy sinh này cho Chúa để đền bù tội lỗi và xin ơn hoán cải cho các tội nhân.

Vào một ngày khác, trong khi nô đùa hái trái dại dọc theo bờ tường, bé Giaxinta bị cỏ độc chích, đau lắm. Cảm thấy đau, em liền siết chặt cỏ độc trong tay và nói:
- Tốt quá! Thêm một dụng cụ khác giúp chúng ta hãm mĩnh phạt xác!

Từ đó, chúng con thường lấy thói quen, đạp chân không lên đám cỏ độc để có dịp dâng hy sinh lên THIÊN CHÚA.

Trong thời gian này, mẹ con tìm lại được chút an bình. Mẹ con thường nói:
- Phải chi có thêm người nào khác đến nói họ cũng trông thấy điều gì đó, hẳn mẹ sẽ tin! Đàng này, giữa vô số người, chỉ có ba đứa chúng nó thấy!

Thế rồi, đùng một cái, có tin đồn: có mấy kẻ trông thấy Đức Mẹ hiện ra, một số khác trông thấy các dấu hiệu trên mặt trời v.v. Thế là, mẹ con đổi giọng điệu. Mẹ con nói:
- Trước đây, hình như chỉ cần có thêm một người nói trông thấy điều gì đó, hẳn mẹ sẽ tin ngay. Bây giờ lại có quá nhiều người nói trông thấy điều này điều nọ, khiến mẹ chả còn biết phải tin ai!

Về phần ba con, người bắt đầu ra mặt bênh đỡ con và buộc phải im tiếng, vừa khi có người nào lên giọng la rầy con. Ba con nói:
- Chúng ta không biết đó có phải là sự thật hay không, nhưng chúng ta cũng không thể quả quyết đó là điều dối trá.

... Lúc ấy, cô dượng con quá chán ngán, vì cứ bị thiên hạ liên tục đến xin gặp và nói chuyện với hai em họ con, nên cô dượng quyết định sai Gioan đi chăn chiên thế, và giữ hai em Phanxicô cùng Giaxinta ở nhà. Ít lâu sau, cô dượng đành bán phứt đàn chiên. Phần con, vì không thích nhập đoàn với các trẻ mục đồng khác, con đành một mình lùa chiên đi chăn. Khi nào nơi chiên ăn cỏ không xa, hai em Phanxicô và Giaxinta cùng đi với con. Còn nếu nơi chiên ăn cỏ quá xa, hai em chỉ đợi con vào ban chiều, khi con lùa chiên về chuồng. Những ngày như thế, con cảm thấy thật hạnh phúc. Một mình lặng lẽ giữa đàn chiên, hoặc ngồi trên đỉnh đồi, hoặc mất hút nơi thung lũng, con miên man chiêm ngắm vẽ đẹp huy hoàng của trời đất và dâng lời cảm tạ THIÊN CHÚA vì bao ơn lành Ngài ban cho con. Khi có tiếng các chị gọi con về nhà để tiếp người này người kia, muốn nói chuyện với con, con cảm thấy lòng buồn vô hạn và chỉ được an ủi khi con dâng những hy sinh này lên THIÊN CHÚA.

Một ngày, ba người đàn ông đến gặp chúng con. Sau cuộc khảo cung vô cùng tỉ mỉ, họ cáo biệt chúng con và đe dọa:
- Các cháu phải quyết định tiết lộ bí mật đi, nếu không, ông quận trưởng sẽ sẵn sàng giết chết các cháu, để dẹp yên chuyện!
Nghe vậy, Giaxinta để lộ nét vui mừng trên mặt và nói:
- Thật hạnh phúc! Cháu yêu mến Chúa và Đức Mẹ vô cùng. Như thế, chúng cháu sẽ sớm được về Trời chiêm ngưỡng thánh nhan các Ngài.

Hồi ấy quả thật có tiếng đồn ông Quận trưởng muốn thủ tiêu chúng con. Do đó, người cô lấy chồng nơi làng ‘‘Casais” về thăm nhà với ý định mang chúng con đi ẩn trốn nơi nhà cô. Cô nói:
- Cô sống nơi làng thuộc thị xã khác, nên ông Quận trưởng không thế nào tìm đến bắt các cháu được.
Tuy nhiên, chúng con không muốn đi và thưa với cô:
- Không sao. Nếu bị giết chúng cháu sẽ được lên Trời!

Cứ thế, thời gian trôi qua cho đến ngày 13-9-1917. Hôm ấy, khi hiện ra, Đức Bà nói với chúng con:
- THIÊN CHÚA rất hài lòng về những hy sinh các con dâng lên Ngài. Nhưng Ngài không muốn các con ngủ với ‘‘dây thừng hãm xác”. Các con chỉ mang dây đó ban ngày mà thôi.

Khỏi cần nói Đức Cha cũng hiểu chúng con vâng lời tức khắc. Lần Đức Mẹ hiện ra vào tháng 8, đã có chút ít dấu hiệu, nên mẹ con hy vọng lần hiện ra này, Đức Mẹ sẽ cho thêm nhiều dấu hiệu tỏ tường hơn, giúp mẹ con có thể tin. Nhưng có lẽ THIÊN CHÚA còn muốn chúng con phải hy sinh nhiều hơn nữa, nên lần hiện ra vào ngày 13-9, Đức Mẹ chỉ tỏ lộ chút ánh sáng vinh quang mà thôi. Thế là mẹ con lại rơi vào cảnh thất vọng và cuộc bách hại con nơi gia đình tái xuất hiện.

Thật ra, mẹ con có đủ lý do để âu sầu phiền muộn. Trước tiên, mẹ con bị mất hoàn toàn ngọn đồi Cova da Iria, là đồng cỏ rất tốt cho đàn vật và đem lại mối lợi đủ nuôi sống toàn gia đình. Tiếp đến, chuyện Đức Mẹ hiện ra đối với mẹ con, chỉ toàn chuyện tưởng tượng bịa đặt của lũ con nít! Một trong các chị con, không làm được gì, ngoài việc liên miên đi gọi con về nhà cho khách gặp và giữ chiên thế cho con. Đối với gia đình khá giả, việc mất mác này chả thấm vào đâu. Nhưng đối với gia đình nghèo như gia đình chúng con, sự mất mác này quả thật lớn lao. Thêm vào đó, sau các phiền nhiễu này, mẹ con đành quyết định bán đàn chiên. Lại thêm mất mác khác. Và tất cả những khốn cùng này, chính con là người chịu trách nhiệm. Vì thế, vào những lúc chỉ trích, mọi người trong gia đình không ngần ngại buông lời sỉ vả thẳng vào mặt con. Con tin rằng Chúa Nhân Lành đã chấp nhận mọi hy sinh của con, vì con sẵn sàng vui lòng chịu vì Chúa và dâng lên Chúa để xin Ngài ban ơn hoán cải cho các tội nhân. Về phía mẹ con, mẹ con cũng nhẫn nhục chịu đựng tất cả cách anh hùng. Nếu mẹ con la rầy quở phạt con, chỉ vì mẹ con nghĩ con là đứa nói dối. Thỉnh thoảng, mẹ con tỏ dấu chấp nhận mọi buồn phiền Chúa gởi đến và nói:
- Phải chăng tất cả những sự đó xảy ra là hình phạt Chúa gởi đến vì tội lỗi của mẹ? Nếu đúng như thế, mẹ xin dâng lời chúc tụng Ngài!

Một ngày, bà hàng xóm không hiểu vì lý do gì, đến nói với mẹ con là bà ta trông thấy có kẻ cho con tiền, con không nhớ bao nhiêu. Mẹ con gọi con đến ngay và tra hỏi để tiền ở đâu. Con trả lời con không nhận được của ai đồng nào hết. Mẹ con lấy cán chổi đánh con để buộc con trao tiền cho mẹ. Mẹ con còn đang đánh như phủi bụi thì chị Carolina con xuất hiện với cô bạn gái Virginia. Cả hai làm chứng có mặt trong buổi hỏi cung hôm ấy, nhưng chả thấy ai cho con đồng nào cả. Nghe thế mẹ ngưng đánh con. Và con rút lui ra nơi thanh vắng để dâng lên Chúa các hy sinh của con.

Nếu con nhớ không lầm thì trong khoảng tháng 9 năm 1917, một thanh niên cao lớn đến nhà con. Nhìn anh, con run sợ khiếp kinh, vì hình dáng quá to lớn của anh. Khi thấy anh bước vào nhà tìm con, một thanh niên cao tới độ phải cúi rạp người xuống, khi bước ngang qua cửa, con tưởng đó là người Đức. Hồi ấy là thời kỳ đang có chiến tranh với nước Đức, nên trong các gia đình, để dọa con nít, người ta thường nói: ‘‘Kia kìa, một ông Đức đến để giết bé!”
Vì thế, khi đối diện với người thanh niên cao lớn này, con nghĩ giờ cuối cùng đã điểm. Dĩ nhiên, người thanh niên nhận ra ngay nét kinh hãi của con nên tìm cách trấn an con. Anh bế con đặt ngồi trên đầu gối anh và hỏi chuyện con thật êm ái dịu dàng, hết sức dễ thương. Hỏi chuyện xong, anh xin mẹ con cho phép con đưa anh đến ngọn đồi, nơi Đức Mẹ hiện ra, để con cùng cầu nguyện với anh. Mẹ con nhận lời. Thế là cả hai chúng con cùng đi. Ra tới đường cái, con run lên vì sợ, khi thấy một mình đi với người lạ. Chỉ có tư tưởng duy nhất này trấn an con: - Nếu anh ta giết mình, mình sẽ được bay thẳng về Trời, chiêm ngắm nhan thánh Chúa cùng Đức Mẹ!

Đến nơi Đức Mẹ hiện ra, anh quỳ xuống và xin con cùng với anh, lần một tràng chuỗi Mân Côi. Anh muốn xin Đức Bà ban cho anh ơn anh vô cùng ao ước: xin cho thiếu nữ anh quen biết chấp nhận kết hợp với anh qua bí tích Hôn Phối. Điều anh xin, đối với con thật kỳ lạ, vì con thầm nghĩ:
- Nếu cô ấy cũng sợ anh giống y như mình, chắc hẳn cô ta sẽ không bao giờ chấp nhận làm vợ anh!

Lần hạt xong, người thanh niên đưa con về tới tận làng. Rồi anh chào từ biệt con thật nhã nhặn. Anh không quên xin con nhớ cầu nguyện cho ý chỉ của anh. Khi anh quay lưng đi, con cắm đầu chạy một mạch về thẳng nhà cô dượng con, vì sợ anh đổi ý, lui gót trở lại!

Làm sao diễn tả nổi ngạc nhiên của con, khi vào đúng ngày 13-10, sau lúc Đức Mẹ hiện ra, con bỗng rơi vào vòng tay người thanh niên này. Anh nhấc bổng con lên cao, để cho mọi người được nhìn thấy con. Quả con rơi đúng chỗ, vì ai ai cũng thỏa mãn được trông thấy con rõ ràng.

Một thời gian ngắn sau đó, người thanh niên trở lại thăm gia đình con. Lần này, có cả thiếu nữ anh từng xin con cầu nguyện cho, giờ đây là hiền thê anh. Anh đến để tạ ơn Đức Mẹ đã ban cho anh ơn anh cầu xin và xin Đức Mẹ chúc lành cho vợ chồng anh. Thanh niên đó hiện là thầy Carlos Mendes, hành nghề luật sư tại Torres Novas.

Bây giờ con xin bước sang biến cố ngày 13-10-1917. Một trong những lời Đức Mẹ phán khi hiện ra lần này, khắc ghi sâu đậm trong lòng con:

- Người ta không được xúc phạm đến THIÊN CHÚA, Chúa chúng ta nữa, vì Người đã bị xúc phạm quá nhiều rồi!

Ôi, lời than thở đầy tình thương và lời khẩn nài đầy dịu ngọt! Ước gì có ai ban cho con quyền được làm vang dội lời này ra toàn thế giới, hầu mọi con cái Mẹ trên Trời có thể nghe được giọng than ai oán của Mẹ!

Lúc ấy có tin đồn: chính quyền muốn đặt bom gần nơi chúng con tụ họp và cho nổ vào chính lúc Đức Mẹ hiện ra. Con không hề cảm thấy sợ hãi và khi nói lại tin này cho Phanxicô cùng Giaxinta biết, cả ba chúng con hoan hỉ reo lên:
- Hạnh phúc biết bao, nếu người ta cho chúng mình ơn ấy, để bay thẳng về Trời với Đức Mẹ!

Tuy nhiên, ba má con phản ứng khác. Các ngài hoảng sợ, và lần đầu tiên, cả hai quyết định tháp tùng con. Ba má con nói:
- Nếu con mình chết, chúng ta cũng muốn chết bên cạnh con.

Ba con cầm tay con, dắt đi đến tận nơi Đức Mẹ hiện ra. Thế nhưng, từ lúc Đức Mẹ hiện ra, con không trông thấy người nữa, mãi đến chiều khi trở về nhà, con mới trông thấy người đang ở với gia đình! Trọn buổi chiều hôm ấy, cả ba chị em chúng con ở giữa đám đông như những con thú kỳ lạ mà mọi người đều muốn nhìn và quan sát. Khi về đến nhà, con thật sự kiệt sức vì phải trả lời cho không biết bao nhiêu là người!

Qua ngày hôm sau, các cuộc tra hỏi vẫn tiếp tục và còn hơn thế nữa, bởi vì từ đó, ngày nào cũng có người đến đồi Cova da Iria để khẩn cầu Mẹ trên Trời che chở. Tất cả đều muốn gặp mặt ba trẻ mục đồng được trông thấy Đức Mẹ, để hỏi han và lần hạt chung với ba trẻ. Nhiều lúc con cảm thấy mệt mỏi, vì cứ phải lập đi lập lại không biết bao nhiêu lần, cùng y một câu chuyện và phải lần hạt liên miên, nên con tìm cách tránh né và lẩn trốn. Thế nhưng, nhiều người cứ khẩn khoản van nài, khiến con lại xiêu lòng, đành cố gắng làm vui lòng họ. Tận đáy lòng, con thầm thì lập lại lời nguyện tắt vẫn thường đọc:
- Vì lòng mến Chúa, lạy THIÊN CHÚA con, để đền bù tội xúc phạm đến Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ MARIA, để cầu cho kẻ có tội ăn năn trở lại và để cầu cho Đức Thánh Cha!

... Con đã kể cho Đức Cha nghe chuyện có hai Linh Mục đáng kính nói với ba chị em chúng con về Đức Thánh Cha và bảo Đức Thánh Cha rất cần lời cầu nguyện của chúng con. Kể từ ngày ấy, không lần nào đọc kinh và dâng hy sinh lên THIÊN CHÚA, mà chúng con lại không quên cầu nguyện cho Đức Thánh Cha. Và chúng con dành cho Đức Thánh Cha một tình yêu rộng lớn đến độ, ngày kia, khi nghe Cha Sở nói với mẹ con: ‘‘Có lẽ con bé sẽ đi Roma để được Đức Thánh Cha khảo cung”, con vỗ tay reo mừng. Con kể lại cho hai em Phanxicô và Giaxinta nghe và nói:
- Hạnh phúc biết bao, nếu chị được đi gặp Đức Thánh Cha!
Hai em rưng rưng nước mắt và nói:
- Phần hai em, hai em sẽ không được đi, nhưng hai em dâng hy sinh này để cầu nguyện cho Đức Thánh Cha.

Cha sở thẩm vấn con lần cuối cùng. Thời gian quy định để điều tra biến cố thực hư, đã chấm dứt, mà Cha Sở vẫn chưa biết phải kết luận như thế nào. Trái lại, Cha Sở bắt đầu để lộ nổi bất bình. Ngài nói:
- Tại sao cả đoàn lũ người đi phủ phục cầu nguyện nơi hoang địa, trong khi THIÊN CHÚA Hằng Sống, THIÊN CHÚA của Bí Tích Thánh Thể, lại cô đơn và bị bỏ rơi nơi Nhà Tạm? Rồi không biết bao nhiêu tiền dâng cúng - không có mục đích - vứt ngổn ngang dưới gốc cây sồi xanh, trong khi việc tu bổ nhà thờ phải bỏ dở dang, chỉ vì thiếu tiền?

Phần con, con thật thông cảm với lời than trách của Cha Sở, nhưng biết làm sao đây? Nếu con có quyền điều khiển tâm lòng của dân chúng, hẳn con đã khuyên họ nên dành ưu tiên cho việc dâng cúng nơi nhà thờ. Nhưng vì con không có mảy may quyền hành, con đành dâng hy sinh này lên THIÊN CHÚA.

Từ khi Giaxinta lấy thói quen: hễ bị phỏng vấn là cô bé cúi gầm mặt xuống đất, không hở môi nói lời nào, thế là chỉ còn lại mình con, bị gọi ra liên miên để thỏa mãn tính tò mò của khách hành hương. Một ngày có Linh Mục đến từ Torres Novas. Cha tra hỏi cặn kẽ, tỉ mỉ, với đủ mọi mánh khoé, khiến con đâm ra áy náy, lo âu không biết mình có dấu diếm điều gì với vị Linh Mục không. Con liền thổ lộ nổi phân vân với hai em Phanxicô và Giaxinta:
- Chị không biết chúng ta có lầm lẫn không, khi không kể lại hết mọi điều Đức Mẹ nói với chúng ta? Chị cũng không rõ khi mình nói: Đức Mẹ có tỏ một điều bí mật, rồi mình lặng thinh không kể tiếp, phải chăng mình đã nói dối, khi không nói thêm gì hết?
Giaxinta trả lời:
- Em cũng không biết nữa! Chính chị phải biết, vì chính chị muốn cho tụi em không được nói gì hết mà!
Con liền nổi giận, nói tuốt luốt một hơi:
- Dĩ nhiên chính chị không muốn! Nếu không, người ta sẽ bắt đầu tra hỏi mình ăn chay đền tội như thế nào! Chỉ thiếu điều đó mà thôi! Rồi, phải chi em biết giữ miệng lưỡi, phải chi em biết lặng im không kể gì hết, thì bây giờ đâu có ai biết ba chị em mình đã trông thấy Đức Mẹ hiện ra và đã nói chuyện với Đức Mẹ! Cũng giống y như chuyện Thiên Thần hiện ra vậy! Không ai cần biết mấy chuyện này cả!

Thật tội nghiệp cô bé, khi nghe con nhắc lại lỗi lầm của em như thế, Giaxinta bật khóc và quỳ xuống xin lỗi con.. Phần con, con vẫn tiếp tục bị dằn vặt triền miên với những áy náy của lương tâm, mà không biết phải giải quyết vấn đề như thế nào.

Vào khoảng tháng 10 năm 1917, có Linh Mục đến từ Santarem. Vị Linh Mục này giống như vị đến từ Torres Novas, nghĩa là có cùng cung cách tra hỏi: vừa đùa cợt chế diễu, vừa dùng đủ mọi mánh mung! Sau lần bị thẩm vấn ấy, những nghi ngờ của con càng gia tăng thêm và con thật sự lúng túng không biết phải làm gì. Con không ngừng kêu van cùng Chúa và Đức Mẹ dạy con biết phải đối xử ra sao: - Lạy Chúa và Mẹ trên Trời của con, Mẹ biết rõ con không hề muốn xúc phạm Mẹ với lời dối trá. Nhưng Mẹ cũng thấy rõ con không nên nói hết những gì Mẹ nói với chúng con!

Giữa những rối rắm như tơ vò ấy, con được diễm phúc hầu chuyện cùng Cha Giáo Hạt vùng Olival. Không hiểu tại sao vị Linh Mục này lại gây nơi con lòng tin tưởng, khiến con giải bày cùng ngài mọi áy náy nghi ngờ của con. Cha liền dạy con cách thức giữ kín điều bí mật cũng như chỉ dẫn cho chúng con về đường thiêng liêng. Cha cũng dạy chúng con phương thế làm vui lòng Chúa trong mọi nơi mọi lúc và dâng lên Chúa vô số việc hy sinh nho nhỏ. Chẳng hạn như Cha nói:
- Nếu các con muốn ăn thứ gì đó, thì đừng ăn, và ăn thứ khác, rồi dâng lên Chúa hy sinh này. Nếu các con muốn chạy nhảy nô đùa, thì đừng chơi, rồi dâng lên THIÊN CHÚA hy sinh này. Nếu người ta tra hỏi các con mà các con không lẩn trốn được, thì chính là Chúa muốn như vậy, và các con hãy dâng lên Chúa hy sinh đó!

Con thật sự hiểu lời dạy của vị Linh Mục đáng kính này và đâm ra quý mến ngài hết lòng! Phần ngài, ngài cũng luôn dõi mắt chăm sóc linh hồn con. Thỉnh thoảng, khi có dịp, ngài ghé thăm gia đình con, hoặc ngài nhờ trung gian của bà góa đạo đức, sống gần Olival. Bà tên là Emilia. Bà Emilia thường đến cầu nguyện nơi đồi Cova da Iria. Cầu nguyện xong, bà đến thăm gia đình con và xin ba má con cho phép bà đưa con về nhà ở với bà vài ngày. Sau đó, bà đưa con sang chào Cha Giáo Hạt. Cha ân cần tiếp đón con. Cha xin con vui lòng ở lại thêm vài ngày cho có bạn với chị ruột của cha. Trong thời gian con trọ tại đây, Cha Giáo Hạt thường bỏ ra nhiều giờ để nói chuyện với con, hướng dẫn con về đường thiêng liêng, dạy con cách thức thực hành nhân đức, cũng như khuyên bảo con nhiều điều tốt lành. Mặc dầu lúc ấy, con chưa biết hướng dẫn đường thiêng liêng là gì, con vẫn có thể nói được rằng: ‘‘Ngài là Vị Linh Hướng đầu tiên của con”. Con luôn giữ một kỷ niệm đạo đức và tri ân đối với vị Linh Mục đáng kính này.

Con đã kể cho Đức Cha nghe chuyện mẹ con phải bán đàn chiên, chỉ giữ lại ba con cừu. Mỗi khi ra đồng, chúng con mang chúng theo để chúng ăn cỏ. Khi nào ở nhà, chúng con cho chúng ăn trong sân. Rồi mẹ con gởi con đến trường. Thời giờ rãnh rỗi ở nhà, con phải học dệt và học may. Như thế, khỏi mất giờ, mất công và mất người đi gọi con. Một ngày, có người đến xin mẹ con cho các chị con đi hái trái nơi vườn của một ông nhà giàu ở làng Pé-de-Cão. Mẹ con nhận lời và quyết định gởi con theo các chị con.

Cũng vào thời kỳ này, Cha Sở bắt đầu chuẩn bị cho trẻ em trong xứ đạo Rước Lễ Trọng Thể. Kể từ ngày con được rước lễ lần đầu vào năm lên 6 tuổi đến nay, năm nào con cũng dọn mình Rước Lễ Trọng Thể. Nhưng năm ấy, mẹ con quyết định không cho con lập lại việc Rước Lễ Trọng Thể. Do đó, con không tham dự các buổi Cha Sở dạy giáo lý. Mỗi ngày học xong ra khỏi lớp, trong khi các trẻ khác tụ họp nơi nhà Cha Sở, thì con về nhà để tiếp tục công việc dệt vải và may vá. Cha Sở rất phật lòng về việc con không đến học giáo lý. Bà chị Cha Sở, một hôm, khi con vừa ra khỏi trường, liền bảo một trẻ khác chạy theo gọi con. Trẻ này gặp con lúc con đã về đến thôn Aljustrel. Trẻ đó nói là chị của Cha Sở muốn gặp con và con phải quay trở lại nhà Cha Sở. Tưởng rằng đây là cuộc thẩm vấn, nên con từ chối, lấy lý do mẹ con bảo phải về thẳng nhà. Nói xong, con ù té bỏ chạy như một con điên. Con chạy băng qua cánh đồng kiếm chỗ ẩn núp thật kín, làm sao để không ai tìm ra được con. Thế nhưng lần ấy, con phải trả giá vô cùng đắc đỏ cho cái trò chơi ‘‘cút bắt” này!

Thời gian ngắn sau đó, giáo xứ con tổ chức một cuộc lễ và nhiều Linh Mục từ các vùng chung quanh đến hát lễ. Vào cuối buổi lễ, Cha Sở truyền gọi con đến và trước mặt tất cả các vị Linh Mục khách, ngài lấy giọng nghiêm khắc la rầy con: vì con không đi học giáo lý và vì con không vâng lời thi hành lệnh truyền của bà chị Cha Sở. Ngài không ngần ngại vạch trần mọi khuyết điểm của con và bài giảng kéo dài khá lâu. Sau cùng, con không nhớ rõ như thế nào, có một Linh Mục đáng kính tự đứng ra bênh vực con trước mặt mọi người. Cha bảo: có lẽ tại mẹ con không để con đến học giáo lý chăng? Nhưng Cha Sở vặn lại:
- Mẹ nó ư? Mẹ nó là vị thánh! Còn con nhỏ này, chúng ta đợi xem nó sẽ trở thành người ra sao!

Vị Linh Mục tốt lành ấy không ai khác là Cha Giáo Hạt vùng Torres Novas. Cha lấy lời dịu dàng hỏi lý do tại sao con không đến học giáo lý. Con trình bày quyết định của mẹ con: ‘‘không để con tham dự các buổi học giáo lý”. Cha Sở tỏ vẻ không tin, truyền con phải gọi chị Gloria, lúc đó đang đứng ngoài sân nhà thờ, bảo chị đến nói cho Cha biết sự thật. Sau khi nghe chị con cho biết quyết định của mẹ con, giống y như con đã nói trước đó, Cha Sở kết thúc:
- Vậy thì, hoặc con bé phải đi học giáo lý trong những ngày còn lại, rồi đến xưng tội với Cha và tham dự cuộc Rước Lễ Trọng Thể như tất cả các trẻ khác, hoặc nó sẽ không bao giờ còn được rước lễ trong giáo xứ nữa!

Nghe Cha Sở trịnh trọng đưa ra điều kiện như thế, chị con liền trình bày sự việc: 5 ngày trước khi có cuộc Rước Lễ Trọng Thể, con phải lên đường với các chị con, đi hái trái nơi một vùng khác. Điều này khiến chúng con lúng túng rất nhiều. Chị con đề nghị nếu có thể được, xin Cha Sở định cho con được xưng tội và rước lễ vào một ngày khác, trước khi chị em chúng con lên đường. Nhưng Cha Sở không chấp nhận đề nghị và khăng khăng giữ vững lập trường.

Chị em con về nhà nói lại cho mẹ con biết câu chuyện xảy ra tại nhà thờ. Mẹ con đích thân đến gặp Cha Sở, xin ban bí tích giải tội và cho con rước lễ vào một ngày khác. Nhưng vẫn vô hiệu. Mẹ con đành quyết định sai anh con đưa con đi, sau ngày con Rước Lễ Trọng Thể, đến nơi vùng hái nho. Đường xá thật xa xôi cách trở, phải băng đồi lội suối. Riêng phần con, không lo ngại đường khó, cho bằng, nguyên ý nghĩ phải xưng tội với Cha Sở, đủ làm con toát mồ hôi lạnh, chỉ vì con quá sợ Cha Sở! Con khóc vì âu lo sợ hãi!

Buổi chiều hôm trước ngày Rước Lễ Trọng Thể, Cha Sở ra lệnh tất các trẻ đến nhà thờ xưng tội. Con cũng lên đường nhưng con tim đau buốt như thể bị kẹp cứng giữa hai thanh sắt! Khi bước vào nhà thờ, con thấy có nhiều Linh Mục đang ngồi tòa. Nơi cuối nhà thờ có đặt tòa giải tội và Cha Cruz, Linh Mục đến từ Lisboa, đang giải tội. Con đã có dịp nói chuyện với Cha và con rất quý mến Cha. Con đâu ngờ rằng, nơi tòa giải tội trần trụi, không che kín, đặt ở giữa nhà thờ, Cha Sở đang ngồi giải tội. Từ vị trí đó, Cha Sở nhìn thấy tất cả những gì xảy ra trong nhà thờ. Thế mà con đâu có biết có hay! Con ngây thơ tự nhủ: ‘‘Mình vào xưng tội với Cha Cruz trước, rồi mình sẽ hỏi Cha cho biết phải làm gì, sau đó mình mới đến gặp Cha Sở”.

Cha Cruz tiếp con thật nhã nhặn. Sau khi nghe con trình bày, Cha đưa ý kiến. Cha nói với con rằng, nếu con không muốn gặp Cha Sở thì con không cần phải đi gặp Cha Sở, và chắc chắn Cha Sở không thể từ chối cho con rước lễ ngày mai. Vô cùng sung sướng trước ý kiến như thế, nên sau khi làm việc đền tội, con vội vã rời nhà thờ, kẻo bị người ta gọi giật ngược trở lại. Ngày hôm sau, con đến nhà thờ với chiếc áo trắng tinh, và lòng không khỏi hồi hộp vì sợ Cha Sở không cho rước lễ. May mắn thay, chỉ vào cuối buổi lễ, Cha Sở mới nói cho con biết rằng: việc con không vâng lời khi đi xưng tội với một Linh Mục khác, đã không thoát khỏi tầm mắt của Cha!

Cha sở càng lúc càng tỏ ra phật ý và lúng túng trước các biến cố xảy ra. Rồi vào một ngày đẹp trời, Cha Sở từ biệt giáo xứ. Có tiếng đồn lan nhanh: “Cha sở bỏ đi vì con và vì không muốn lãnh trách nhiệm về vụ Đức Mẹ hiện ra!” Cha sở là Linh Mục nhiệt thành và được toàn dân quý mến, nên cuộc ra đi của ngài gây tiếng vang lớn, và mọi lỗi lại đổ cả trên đầu con.

Ai biết được con phải đau khổ chừng nào! Một số bà đạo đức trong xứ, mỗi khi có dịp gặp con, không ngần ngại bày tỏ nổi âu sầu và lên tiếng chửi thẳng vào mặt con. Đôi lúc, các bà còn dùng tay tát vào mặt con hoặc giơ chân đá vào người con. Hai em Phanxicô và Giaxinta được may mắn thoát khỏi những món quà Trời Cao gởi tặng cho con, bởi vì, cô dượng con nhất định không để cho ai được quyền đụng đến con cái của mình! Nhưng hai em vô cùng đau đớn khi nhìn thấy con bị sỉ vả và bị hành hạ cách ô nhục! Mỗi lần như thế, hai em thông phần đau khổ với con và khóc ròng.

Một ngày, Giaxinta nói với con:
- Ai làm cho ba má em cũng giống như ba má chị? Như thế, người ta có thể đánh đập em, hầu em có thêm nhiều hy sinh để dâng lên THIÊN CHÚA chúng ta?

Mặc dầu nói thế, nhưng Giaxinta vẫn biết tìm kiếm đủ mọi dịp để hãm mình ép xác. Thỉnh thoảng, chúng con có thói quen nhịn uống trong vòng 9 ngày, hoặc một tháng, để dâng hy sinh lên THIÊN CHÚA. Một lần, chúng con làm việc hy sinh này trong tháng 8, tháng nóng nực oi bức. Một hôm, trên đường từ Cova da Iria trở về sau khi đã lần hạt Mân Côi, khi đến gần một ao nước bên vệ đường, Giaxinta nói với con:
- Kìa, em khát nước và đau đầu quá! Vậy em sẽ uống ít nước này!
- Không! Nước này thì không! Mẹ chị dặn đừng uống vì nước này rất dơ. Tốt hơn đi xin nước của dì Maria-dos-Anjos, có nhà ở gần đây!
- Không, em không muốn uống nước ngon. Em muốn uống nước này, vì thay vì dâng nổi khát lên cho Chúa, em sẽ dâng Ngài hy sinh vì uống nước dơ!

Và sự thật nước ao này rất dơ. Người ta thường đem quần áo đến đây giặt. Súc vật cũng đến uống nước rồi ngụp lặn trong ấy. Do đó mẹ con dặn con cái rất kỹ không được uống nước ao này.

Nhiều lần khác, Giaxinta nói với con:
- Chúa chúng ta hẳn rất hài lòng vì các hy sinh chúng ta dâng lên Ngài, vì em khát lắm, khát lắm! Nhưng em không muốn uống nước, em muốn chịu đau khổ vì lòng mến Chúa.

Một ngày, cả ba chúng con ngồi chơi nơi cửa nhà cô dượng con, bỗng chúng con để ý thấy có nhiều người đang tiến gần đến nhà. Tức khắc, Phanxicô và con, hai đứa nhanh chân tẩu thoát, mỗi đứa chạy vào một phòng và chui xuống gầm giường trốn. Phần Giaxinta, em nói với chúng con:
- Em không chạy trốn! Em muốn dâng cho Chúa hy sinh này.
Những người ấy đến gần, nói chuyện với Giaxinta và đợi thật lâu, trong lúc người ta tìm con khắp nhà. Sau cùng, không chờ được, họ đành bỏ đi. Thế là con chui ra khỏi nơi ẩn trốn và hỏi Giaxinta:
- Em trả lời sao khi người ta hỏi chị và Phanxicô ở đâu?
- Em không nói gì hết. Em cúi mặt xuống đất và giữ thinh lặng. Em luôn luôn làm như thế, khi nào em không muốn nói điều gì không phải sự thật. Em không muốn nói dối, bởi vì nói dối là phạm tội!

Và quả thật, Giaxinta thường dùng cách thức này để khỏi trả lời cho bất cứ ai, và dù có hao hơi tổn sức mấy đi nữa, người ta vẫn không thể nào làm cho em hé môi nói một lời. Phần Phanxicô và con, chúng con ít khi làm việc hy sinh này, và thường chúng con tránh được chừng nào hay chừng ấy!

Một ngày, chúng con ngồi chơi gần nơi nhà cô dượng con, dưới bóng hai cây vả ngã xuống mặt đường. Phanxicô đi xa xa một chút để nô đùa. Nhìn thấy có nhiều phụ nữ đang tiến đến nhà, Phanxicô tức tốc chạy đến báo tin cho chúng con biết. Vào thời kỳ ấy, các bà sang trọng thường mang mũ có vành thật rộng, gần bằng một cái rây. Với một cái mũ to tướng như thế, chúng con nghĩ các bà sẽ không trông thấy được xa. Vì thế, chúng con vội vàng leo lên chót vót đỉnh cây vả để trốn. Từ trên cao nhìn xuống, thấy rõ các bà đã đi được một quãng xa, chúng con lại tuột ngay xuống, rồi ba chân bốn cẳng chạy như bay vào ẩn núp trong ruộng bắp.

Cách thức chúng con tẩu thoát, trốn ẩn như thế, mỗi khi có thể được, làm phật lòng Cha Sở rất nhiều.. Nhưng nhất là, Cha Sở than phiền vì chúng con tìm đủ mọi cách để tránh gặp mặt các Linh Mục. Sự thật là như thế, và Cha Sở có lý để than phiền chúng con. Nhưng sự thật cũng là: tại vì các Linh Mục tra hỏi chúng con vô cùng dai dẳng: hỏi đi, hỏi lại, hỏi ngược, hỏi xuôi, hỏi đủ điều, hỏi đủ chuyện! Mỗi khi đối diện với một Linh Mục, chúng con chuẩn bị dâng lên THIÊN CHÚA một hy sinh to lớn nhất, trong tất cả các hy sinh của chúng con!!!...

Tuy nhiên, chính quyền không thể khoanh tay ngồi nhìn các biến cố từ từ phát triển. Hồi ấy, tại nơi chỗ Đức Mẹ hiện ra, người ta dựng hai cây cột làm thành cổng chào, rồi đặt hai cái đèn dầu, và có mấy người thay phiên nhau, luôn luôn giữ cho hai cây đèn dầu được cháy sáng. Thế mà, vào một đêm, chính quyền cho người mang xe hơi đến, giở hai cây cột ra, rồi chặt cây sồi-xanh, nơi Đức Mẹ hiện ra, và bỏ tất cả lên xe chở đi. Sáng hôm sau, tin này được chuyền miệng lan nhanh khắp vùng. Con liền đến tận nơi xem có thật xảy ra như thế không. Nhưng, ai kể cho xiết niềm vui lớn lao của con, khi con nhận ra rằng, vì quá vội vàng, lại đêm tối đen, nên mấy người đó đã chặt lộn cây: thay vì chặt cây sồi-xanh nơi Đức Mẹ hiện ra, họ đã chặt cây sồi-xanh bên cạnh và mang đi. Con liền xin Đức Mẹ tha thứ cho những người này và đọc kinh xin ơn hoán cải cho họ.

Vào một ngày 13 tháng 5, con không nhớ năm 1918 hay năm 1919, lúc còn sáng tinh sương, có tin đồn loan báo rằng, một đoàn quân cỡi ngựa đang có mặt tại Fatima để ngăn chặn dân chúng không được đến đồi Cova da Iria, nơi Đức Mẹ hiện ra. Mọi người kinh hoàng, vội vã đến báo tin dữ cho con biết, vì nghĩ rằng, ngày cuối cùng đời con đã điểm. Không hề mảy may lo sợ về những gì người ta nói, con bình tĩnh ra đi đến nhà thờ. Khi đến làng Fatima, con đi lách qua giữa đoàn ngựa, đang đứng đầy quảng trường trước nhà thờ, và điềm nhiên đi vào nhà thờ. Con tham dự Thánh Lễ do một Linh Mục mà con không quen biết đang cử hành. Con rước lễ rồi quỳ lại tạ ơn. Sau đó, con trở về nhà bằng an, mà không thấy ai nói gì với con cả. Con không rõ có phải là vì người ta không trông thấy con, hay là vì người ta không mảy may chú ý đến con chăng?

Vào buổi chiều hôm ấy, mặc dầu có tin tức dồn dập đưa đến, báo cho con biết đoàn lính cỡi ngựa cố gắng đẩy lui dân chúng ra xa, không cho họ đến gần nơi Đức Mẹ hiện ra, nhưng không có hiệu quả, con vẫn bình thản ra đi đến đồi Cova da Iria để lần hạt. Trên đường, một nhóm phụ nữ đến từ xa, nhập đoàn cùng đi với con. Vào lúc gần đến nơi Đức Mẹ hiện ra, tức khắc xuất hiện hai người lính cỡi ngựa, thúc ngựa chạy mau đến bên chúng con. Họ hỏi chúng con đi đâu. Khi nghe các bà trong nhóm khẳng khái trả lời: ‘‘Chúng tôi đi đâu mặc kệ chúng tôi, các ông không cần biết”, họ liền thúc ngựa loạn xạ, như thể họ muốn dùng ngựa lật ngã chúng con. Các phụ nữ hoảng sợ chạy tán loạn tứ phía, chỉ còn lại mình con đứng giữa đường với hai người lính cỡi ngựa. Họ lên tiếng hỏi con tên gì. Con trả lời không chút do dự. Họ lại hỏi con có phải là đứa trẻ được trông thấy Đức Mẹ hiện ra không. Con trả lời phải. Họ ra lệnh cho con phải vào đứng giữa hai con ngựa, rồi theo họ đi về phía làng Fatima.

Chúng con đi về phía cái đầm, gần có bà lão đạo đức sinh sống. Từ đàng xa, khi trông thấy con đi giữa hai người lính cỡi ngựa, bà bỗng động lòng trắc ẩn. Và như thánh nữ Vêrônica xưa kia, bà liền ra đứng giữa đường, tìm cách khuyến khích con giữ vững lòng can đảm. Hai người lính bèn đẩy bà ra lề đường, để khỏi bị chắn lối mất giờ. Bà bỗng bật khóc nức nở, thương cho số phận kém may mắn của con. Đi được một quãng, họ ra lệnh cho con ngừng lại và hỏi người đàn bà đó có phải là mẹ con không. Con trả lời: Không. Họ không muốn tin và hỏi căn nhà kia có phải nhà của con không. Một lần nữa con nói: Không. Vẫn tỏ ra không tin, họ đưa con đi xa hơn nữa, tới nhà cha mẹ con.

Khi đến gần cánh đồng, bên một suối nước nhỏ, thấy có mấy cái lổ đào sẵn để trồng cây, hai người lính liền ra lệnh cho con đứng lại. Và có lẽ để áp đảo tinh thần con, họ nói với nhau:
- Đây có mấy lổ đã đào sẵn. Mình lấy gươm chặt đầu con bé rồi chôn nó vào đó. Như vậy, mọi chuyện xong xuôi hết!

Nghe mấy lời này, con thực sự nghĩ giờ cuối cùng đã đến. Nhưng con vẫn điềm tĩnh an bình, như không có chuyện gì xảy ra. Một lúc sau, như tỏ dấu suy nghĩ, người lính kia trả lời: ‘‘Không, chúng ta không được phép làm thế”. Thế rồi họ ra lệnh cho con tiếp tục đi. Như vậy, con đi qua cả xóm, đến tận nhà cha mẹ con. Người người trong xóm, kẻ đứng nơi cửa sổ, người đứng trên bậc cửa ra vào để xem chuyện gì xảy ra. Có kẻ cười vui, nhạo báng. Có mấy người khác lại tỏ ra xót thương cho số phận hẩm hiu của con. Khi đến nhà con, họ bảo con đi tìm cha mẹ con. Nhưng hai ngài không có ở nhà. Một trong hai người lính xuống ngựa vào nhà để xem cha mẹ con có trốn ẩn nơi xó xỉnh nào đó không. Họ lục soát toàn nhà, nhưng không gặp thấy người nào cả. Họ ra lệnh cho con không được ra khỏi nhà suốt ngày hôm ấy. Xong họ lên ngựa và cả hai thúc ngựa đi xa.

Chiều đến, có tin đồn cho biết đoàn lính cỡi ngựa đã bị dân chúng đẩy lui, nên vào lúc mặt trời lặn, con ra đi đến đồi Cova-da-Iria để lần hạt Mân Côi. Có cả hàng trăm người cùng đi với con. Sau này, có người kể lại cho con nghe rằng. Khi con bị hai người lính cỡi ngựa bắt đi với họ, có người chạy về báo tin cho mẹ con biết. Mẹ con trả lời:
- Nếu quả thật nó trông thấy Đức Mẹ, Đức Mẹ sẽ bảo vệ nó. Còn nếu nó nói dối nó đáng bị trừng phạt.

Nói thế rồi mẹ con tỏ ra bình tĩnh, không lo lắng gì cả.

Có lẽ có người hỏi con: chuyện gì xảy ra cho hai em Phanxicô và Giaxinta, suốt trong thời gian con bị thử thách trên đây? Con xin thưa con không biết. Con không nhớ gì hết về hai em. Có lẽ cô dượng con khi nghe biết việc xảy ra đã không cho phép hai em ra khỏi nhà ngày hôm đó.

Hẳn THIÊN CHÚA Nhân Lành hài lòng khi thấy con chấp nhận chịu đau khổ, nên Ngài lại dọn thêm cho một chén đắng khác, đắng hơn gấp bội, hầu đưa cho con uống, một thời gian ngắn sau đó. Mẹ con ngã bệnh nặng, nặng đến nỗi chúng con tưởng như mẹ con lên cơn hấp hối. Tất cả chị em chúng con, con cái mẹ, quây quần bên giường mẹ, để nhận lãnh phép lành cuối cùng của mẹ và để hôn kính tay người hấp hối. Vì là con út, nên con là người cuối cùng đến bên cạnh mẹ con. Tội nghiệp mẹ con, khi trông thấy con, mẹ con hồi tỉnh lại, quàng hai tay vào cổ con, vừa rên rỉ vừa nói lớn tiếng:
- Thật tội nghiệp con tôi! Rồi đây con sẽ ra sao khi không còn mẹ nữa. Mẹ sắp chết với con tim tan nát vì chuyện của con.

Nói rồi, mẹ con khóc nức nở, khóc đắng cay. Vừa khóc mẹ con vừa siết chặt con trong vòng tay của mẹ. Chị lớn tuổi nhất giựt mạnh con khỏi vòng tay mẹ con. Chị dẫn con vào nhà bếp và ra lệnh cấm con không được trở lại phòng người bệnh nữa. Sau cùng, chị nói với con:
- Mẹ mình chết trong cơn sầu khổ, vì những đắng cay em gây ra cho mẹ.
Con liền quỳ gối xuống, gục đầu trên ghế, và với nổi niềm buồn sầu khôn tả, con dâng lên THIÊN CHÚA hy sinh lớn lao này.

Một lúc sau, hai chị lớn tuổi nhất trông thấy không còn hy vọng gì được nữa, vào nhà bếp gặp con và nói:
- Luxia à, nếu quả thật em được trông thấy Đức Mẹ, thì bây giờ, em hãy ra đồi Cova-da-Iria và xin Đức Mẹ chữa lành mẹ chúng ta. Em hãy khấn hứa cùng Đức Mẹ điều gì tùy ý em. Các chị sẽ thực hiện lời hứa ấy. Rồi sau đó, các chị sẽ tin.

Không mất một giây, con tức tốc lên đường. Để khỏi bị ai trông thấy, con đi băng qua các đường nhỏ nơi cánh đồng. Vừa đi con vừa lần hạt Mân Côi cho đến tận đồi Cova-da-Iria. Con thân thưa cùng Đức Mẹ điều chị em chúng con cầu xin. Vừa nài van, con vừa để cho các dòng lệ tự do tuôn trào. Xong, con trở lại nhà với niềm hy vọng tràn trề Mẹ Thiên Quốc sẽ trả lại sức khoẻ cho người mẹ trần thế của con. Lúc về tới nhà, con thấy mẹ con đã khoẻ lại và ba ngày sau, mẹ con có thể làm các công việc lặt vặt trong nhà.

Con hứa với Đức Mẹ là nếu Đức Mẹ nhận lời con cầu xin, con sẽ đến đồi Cova-da-Iria trong vòng 9 ngày liên tiếp, có các chị con cùng đi. Chúng con sẽ vừa đi vừa lần hạt và sẽ đi bằng đầu gối từ con dốc cao cho đến cây sồi-xanh. Vào ngày thứ chín, chị em chúng con phải đưa đến đồi Cova-da-Iria 9 đứa trẻ nghèo và dọn cho chúng bữa ăn. Vì thế, giờ đây chị em chúng con phải thực hiện lời con đã hứa cùng Đức Mẹ, có cả mẹ con cùng đi nữa. Mẹ con kêu lên: ‘‘Ủa, Đức Mẹ chữa mẹ lành hả? Vậy sao mẹ vẫn chưa tin? Mẹ chả biết điều ấy có nghĩa là gì!”

THIÊN CHÚA Nhân Lành ban cho con niềm an ủi này. Nhưng rồi Ngài lại đến gõ cửa lòng con, khi gởi đến cho con một hy sinh khác, không kém phần to tát. Ba con cho tới lúc ấy là người lực lưỡng và khoẻ mạnh, không bao giờ biết đau đầu là gì. Thế mà chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ, chứng bệnh sưng phổi đột ngột ập đến và đưa ba con ra đi về thế giới bên kia! Nổi đau đớn của con lớn lao đến độ con nghĩ mình sẽ chết. Ba con là người duy nhất trong gia đình vẫn tiếp tục bày tỏ lòng ưu ái đối với con, và trong những lần to tiếng tranh luận trong gia đình, nổi lên chống lại con, ba con là người bênh đỡ con. Con vào phòng đóng kín cửa lại và kêu lên cùng Chúa:
- Lạy THIÊN CHÚA con! Lạy THIÊN CHÚA con! Con không hề bao giờ nghĩ rằng, Chúa lại dành cho con nhiều nổi đau khổ đến thế! Nhưng con xin chịu đau khổ vì lòng kính mến Chúa, để đền bù các tội lỗi xúc phạm đến Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ MARIA, cũng như để cầu cho Đức Thánh Cha và để xin ơn hoán cải cho người tội lỗi.

Vào thời kỳ ấy, bệnh tình Giaxinta và Phanxicô mỗi ngày một trầm trọng thêm. Thỉnh thoảng Giaxinta nói với con:
- Em cảm thấy thật đau nơi ngực. Nhưng em không nói gì với mẹ em cả. Em muốn chịu đau đớn vì lòng mến Chúa chúng ta, để đền bù các tội lỗi xúc phạm đến Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ MARIA, để cầu cho Đức Thánh Cha và cho kẻ có tội ăn năn trở lại.

Một ngày, con đến thăm Giaxinta vào ban sáng. Em hỏi con: ‘‘Đêm nay chị đã dâng lên Chúa bao nhiêu việc hy sinh?” Con đáp: ‘‘Ba. Chị thức dậy ba lần để đọc các Kinh Thiên Thần dạy”. Giaxinta nói: ‘‘Phần em, em dâng cho Chúa nhiều hy sinh lắm, nhiều lắm. Bởi vì em đau đớn lắm, nhưng em không hề kêu than lời nào”.

Phanxicô nói rất ít. Nhưng em thường làm tất cả những gì em thấy Giaxinta và con làm, và rất ít khi em đề nghị điều gì. Trong cơn bệnh, Phanxicô chịu đau đớn với lòng nhẫn nhục anh hùng. Không bao giờ em hé môi rên rỉ hay than trách điều gì. Một thời gian ngắn trước khi em chết, một ngày, con hỏi: ‘‘Phanxicô à, em có đau lắm không?” Em đáp: ‘‘Có, nhưng em chịu tất cả vì lòng yêu mến Chúa chúng ta và Đức Bà”. Một ngày, em đưa cho con cái dây thừng, - sợi dây mà con đã có dịp thưa với Đức Cha trước đây - và nói: ‘‘ Chị hãy cầm lấy dây và mang đi, đừng để cho mẹ em thấy. Bây giờ, em không thể nào mang nó nơi thắt lưng được nữa”.

Phanxicô ăn và uống tất cả những gì mẹ em mang đến cho em và con không tài nào đoán được em thích hay không thích thứ gì. Em luôn luôn làm như thế cho đến ngày em về Trời. Ngày hôm trước, em nói với Giaxinta và con rằng: ‘‘Em sắp lên Trời. Nhưng trên Trời, em sẽ cầu nguyện thật nhiều cùng Chúa và Đức Bà, để các Ngài cũng mau mau đưa chị và em Giaxinta lên đó”.

Giaxinta ở lại với cơn bệnh mỗi ngày một nặng thêm. Mẹ em biết rõ em không thích uống sữa. Một ngày, mẹ em mang đến cho em ly sữa cùng với một chùm nho thật ngon. Mẹ em nói với em: ‘‘Con dùng nhé. Nếu con không uống được sữa thì đừng uống, nhưng ăn nho đi”. Giaxinta trả lời: ‘‘Không, thưa mẹ không. Con không ăn nho đâu, mẹ cất đi. Mẹ cho con ly sữa, con sẽ uống”. Và không tỏ dấu gì khó chịu, em cầm lấy ly sữa uống cạn. Cô con thật hài lòng, ra khỏi phòng với ý nghĩ: có lẽ con gái mình đã hết sợ sữa rồi! Nhưng, Giaxinta quay sang con và nói: ‘‘Em rất thích ăn nho và sợ uống sữa. Nhưng em muốn dâng hy sinh này lên Chúa”.

Ngày nọ, vào một buổi sáng, khi đến thăm Giaxinta, con trông thấy gương mặt em đổi khác. Con hỏi em có đau nhiều hơn không. Em trả lời: “Đêm nay em đau đớn lắm, nhưng em muốn dâng cho Chúa hy sinh không vào giường. Do đó, em không ngủ chút nào hết”.

Một lần khác, em nói với con: ‘‘Khi nào chỉ có một mình, em xuống khỏi giường để đọc lời kinh Thiên Thần dạy. Nhưng giờ đây, em không thể nào cúi đầu tận đất nữa, vì em ngã. Do đó, em chỉ quì gối cầu nguyện”. Một hôm, con có dịp nói chuyện với Cha Quản Hạt vùng Olival. Cha hỏi thăm con tin tức của Giaxinta. Con cho Cha biết về tình trạng sức khoẻ và kể thêm chuyện em nói với con là em không thể phủ phục dưới đất để cầu nguyện được nữa. Cha Quản Hạt bảo con nói lại với Giaxinta là Cha không muốn em xuống khỏi giường để cầu nguyện nữa, nhưng cứ nằm yên trên giường và cầu nguyện. Con thông báo cho Giaxinta biết về lời dặn của Cha Quản Hạt. Giaxinta hỏi con: ‘‘Nhưng Chúa chúng ta có bằng lòng không?” Con trả lời: ‘‘Có. Bởi vì Chúa muốn cho mình phải vâng lời tất cả những gì Cha Quản Hạt truyền dạy”. Giaxinta nói: ‘‘Tốt lắm. Vậy thì em sẽ không chỗi dậy để cầu nguyện nữa”.

Mỗi khi hoàn cảnh cho phép, con rất thích đến Cabeco - nơi hang đá quí yêu của chúng con - để cầu nguyện. Và vì Giaxinta rất thích hoa, nên cứ mỗi lần đến đó, con hái cho em bó hoa đủ loại trắng và hồng. Con mang về cho em và nói: ‘‘Em à, đây là hoa chị hái ở Cabeco!” Giaxinta cầm lấy và thỉnh thoảng em nói với hai hàng lệ tuôn trào trên má: ‘‘Em sẽ không bao giờ trở lại đó nữa. Kể cả Valinhos, lẫn Cova-da-Iria! Điều này làm em rất buồn”. Con an ủi em: ‘‘Đâu có hệ gì, vì em sắp lên Trời trông thấy Chúa và Đức Mẹ kia mà!” Giaxinta đáp: "Đúng thế. Phải rồi!"

Thế là Giaxinta hân hoan nghĩ đến điều đó, trong khi tay em mân mê bó hoa và đếm từng cánh của mỗi đóa hoa.

Vài ngày sau khi ngã bệnh, em trao cho con sợi dây thừng đền tội và nói:
- Chị cất nó đi, kẻo mẹ em thấy. Nếu em khỏe lại, em sẽ xin chị.
Sợi dây thừng này có ba nút thắt và có dính chút máu. Con dấu kín một nơi cho đến ngày con rời vĩnh viễn nhà cha mẹ. Vì không biết phải làm gì nên con đốt đi cùng với sợi dây của Phanxicô, anh bé.

Nhiều người từ nơi khác đến thăm, trông thấy khuôn mặt con vàng vọt và có vẽ bệnh hoạn, liền xin phép mẹ con cho họ mang con về nhà họ vài ngày, viện lý do: ‘‘đổi khí sẽ làm con khoẻ hơn”. Biết chủ ý họ, mẹ con chấp thuận. Thế là họ mang con về với họ. Lúc ở nơi này, khi ở nơi kia. Trong các cuộc hành trình này, con không luôn luôn gặp được ngưỡng mộ và trìu mến. Bên cạnh người trầm trồ khen ngợi và cho con là một vị thánh, cũng không thiếu kẻ thóa mạ gọi con là con bé giả hình, ảo tưởng và phù phép. THIÊN CHÚA Nhân Lành bỏ muối vào nước, để giữ cho nước khỏi bị thối nát. Vì vậy, nhờ ơn Quan Phòng THIÊN CHÚA, con có thể bước qua lửa mà không bị cháy sém cũng không biết đến mối mọt của tính khoe khoang tự phụ, thường đục khoét phá hoại tất cả! Trong những hoàn cảnh như thế, con có thói quen nhắn nhủ mình:
- Mọi người đều lầm lẫn. Con không phải vị thánh như một số người ca tụng, cũng không phải là con bé lừa dối như một số khác vu khống. Chỉ duy nhất THIÊN CHÚA biết rõ con là người như thế nào.

Lúc trở lại gia đình, con vội vàng chạy ngay đến thăm Giaxinta. Cô bé nhăn nhó nói với con: ‘‘Xem kìa! Chị không được bỏ nhà đi nữa nghe. Em nhớ chị vô cùng. Từ lúc chị đi đến bây giờ, em không nói chuyện với ai hết. Với người khác, em không biết phải ăn nói như thế nào!”

Sau cùng, cũng đến ngày Giaxinta phải đi nhà thương ở thủ đô Lisboa. Con đã viết cho Đức Cha biết về cuộc chia ly não nuột như thế nào. Vì thế, con không nhắc lại ở đây nữa. Con buồn vô cùng vì cảm thấy đơn độc một mình. Chỉ trong thời gian ngắn, THIÊN CHÚA Nhân Lành đã cất về Trời người cha dấu ái của con, rồi đến em Phanxicô, và giờ đây, đến lượt Giaxinta ra đi, mà con không còn gặp lại em trên cõi đời này nữa.

Cứ mỗi lần hoàn cảnh cho phép, con liền đến Cabeco và trốn ẩn trong hốc đá sâu, để giảm bớt nổi niềm đau đớn, một mình với THIÊN CHÚA, cũng như để tha hồ nhỏ không biết bao nhiêu giọt nước mắt. Khi từ trên đồi đi xuống, toàn cảnh vật nhắc con nhớ đến hai bạn tí hon yêu quí của con: đây là những tảng đá, nơi chúng con thường ngồi trên đó, kia là những chùm hoa, nhưng giờ đây con không hái nữa, vì không còn ai để mang về cho, xa xa là ngọn đồi Valinhos, nơi chúng con cùng nhau hưởng nếm hương vị ngọt ngào của Thiên Đàng.

Một ngày, như người mơ màng với thực tế phũ phàng xảy ra, con đến nhà cô con, nửa tỉnh nửa thức, vừa đi vào phòng em Giaxinta, con vừa gọi tên em. Chị Teresa chặn con lại và bảo: Em Giaxinta không có ở đây!

Một thời gian ngắn sau đó, có tin cho hay em đã bay về Trời. Người ta đưa xác em về Vila Nova de Ourem. Một hôm, cô con đưa con đến đó, bên cạnh di hài của Giaxinta, với hy vọng giúp con khuây khỏa nổi buồn. Thế nhưng, trong một thời gian lâu thật lâu, nổi buồn của con mỗi ngày như một gia tăng thêm. Mỗi lần trông thấy nghĩa trang mở cửa, con liền vào ngồi bên mộ Phanxicô hoặc mộ ba con và con ở lại đó hàng giờ, hàng giờ.

Nhờ ơn Chúa, sau một thời gian, mẹ con quyết định đi lên thủ đô Lisboa và dẫn con theo. Qua trung gian của Cha Sở Formigâo, một bà đạo đức tiếp rước hai mẹ con con, cho trọ trong nhà bà và bằng lòng trả chi phí ký túc xá cho con, nếu con nếu muốn ở lại Lisboa để học. Mẹ con và con, cả hai mẹ con tiếp nhận với lòng tri ân món quà của người đàn bà có lòng bác ái. Bà tên là Assuncâo Avelar. Mẹ con, sau khi khám bệnh và nghe lời bác sĩ khuyên không nên mổ, đã trở về quê, để con lại nhờ bà Avelar chăm sóc dùm.

Khi mọi sự thu xếp xong và ngày con nhập ký túc xá được ấn định, bỗng có tin đồn chính quyền biết con đang ở Lisboa nên họ lùng bắt con. Người ta vội mang con đi Santarem, dấu nơi nhà Cha Sở Formigâo. Tại đây con phải ẩn trốn trong nhà, không được đi đâu, kể cả đi tham dự Thánh Lễ. Sau cùng, bà chị Cha Sở dẫn con về nhà, trả con lại cho mẹ con. Bà không quên hứa với mẹ con sẽ thu xếp cho con gia nhập ký túc xá khác của các nữ tu Dorotêa ở Tây Ban Nha. Tất cả những chuyện vừa xảy ra giúp con khuây khỏa phần nào và từ từ quên đi nổi buồn đè nặng nơi lòng con.

Vào thời kỳ này, Đức Cha nhận chức vụ cai quản giáo phận Leiria và THIÊN CHÚA Nhân Lành trao phó cho Đức Cha một đoàn chiên từ lâu không có chủ chăn. Người ta lợi dụng dịp này để dọa con hoảng sợ. Họ bảo rằng, Đức Cha biết hết mọi chuyện, đoán được tất cả những điều kín ẩn trong lương tâm và như thế, sẽ khám phá ra mọi lừa dối của con. Thế nhưng, thay vì khiếp sợ, con lại nồng nhiệt ước muốn được thưa chuyện với Đức Cha, vì con tự nhủ: ‘‘Nếu quả thật Đức Giám Mục biết hết mọi sự, ngài sẽ biết con nói thật”.

Vì thế, vừa khi có người tốt lành ở Leiria tự đảm trách việc đưa con đến gặp Đức Cha, con hân hoan chấp nhận đề nghị. Con mong cho mau đến ngày được hầu chuyện với Đức Cha. Và ngày đó đến thật. Cuộc hội kiến diễn ra như thế nào, hẳn Đức Cha còn nhớ rõ hơn con. Nên con xin phép không kể ra đây. Con chỉ ghi lại một điều thôi. Thật thế, khi con thấy Đức Cha tiếp con với trọn lòng ưu ái, không hề đặt câu hỏi nào vì tò mò hoặc vô ích, nhưng chỉ tỏ lộ nổi ưu tư lo lắng cho lợi ích linh hồn con và sẵn sàng lãnh nhận phần chăn dắt con chiên bé nhỏ tội nghiệp, mà THIÊN CHÚA vừa ủy thác cho Đức Cha, quả thật khi ấy, con hoàn toàn xác tín rằng: Đức Giám Mục biết hết mọi sự! Do đó, con không ngần ngại phó thác con trong tay Đức Cha. Các điều kiện Đức Cha đặt ra cho con thật dễ dàng và hợp với tính tự nhiên của con, đó là: ‘‘hoàn toàn giữ kín những gì Đức Cha nói với con và luôn sống ngoan ngoãn tử tế”. Con ra về và giữ kín điều bí mật cho đến ngày Đức Cha xin mẹ con cho phép con ra đi gia nhập ký túc xá.

Sau cùng, ngày 16-6-1921, được chọn làm ngày con lên đường. Ngày hôm trước đó, với con tim thổn thức và tràn đầy luyến tiếc, con đi từ biệt tất cả những nơi từng ghi dấu vết kỷ niệm thân yêu và chắc chắn rằng, con sẽ không bao giờ còn trở lại nữa. Đó là đồi ‘‘Cabeco”, hóc đá, những triền đồi ‘‘Valinhos”, nhà thờ xứ đạo - nơi THIÊN CHÚA Nhân Lành bắt đầu tỏ lộ lòng từ bi của Ngài cho con -, nghĩa trang: nơi có di hài người cha dấu ái của con và di hài của Phanxicô mà con không thể nào quên.

Rồi con đến từ biệt cái giếng - lúc trăng đã bắt đầu lên - và từ biệt cái sân đập lúa, nơi con thường đến để chiêm ngắm bầu trời đầy sao hoặc vào lúc mặt trời mọc cũng như khi mặt trời lặn, vào những ngày còn lấp lánh các giọt sương mai hoặc vấn vương những cụm tuyết trắng xóa. Tất cả những kỳ công thiên nhiên tuyệt tác này làm con liên tưởng đến vẽ đẹp Thiên Đàng.

Ngày hôm sau, không giã biệt ai, vào lúc 2 giờ sáng, cùng với mẹ con và một công nhân làm việc tại Leiria, con lên đường, lòng giữ kín điều bí mật. Chúng con đi ngang đồi Cova-da-Iria để con từ biệt lần cuối. Tại đây, con quỳ gối lần hạt, lần sau cùng, trước khi tiếp tục cuộc hành trình. Trên đường, con thường ngoáy cổ nhìn lại nhiều lần để giã biệt ngọn đồi dấu ái phúc lành. Chúng con đến Leiria vào khoảng 9 giờ sáng. Nơi đây con gặp bà Philomena Miranda, sau này là mẹ đỡ đầu khi con nhận lãnh bí tích Thêm Sức. Chính Đức Cha chỉ định bà đưa con đi Porto. Xe lửa khởi hành lúc 2 giờ chiều. Ở nhà ga, con ôm hôn mẹ con lần cuối, nước mắt dàn dụa. Xe lửa chuyển bánh mang theo trái tim con tí hon, chìm ngập trong đại dương sầu khổ và đong đầy những kỷ niệm không bao giờ xóa nhòa.

Thưa Đức Cha, con thiển nghĩ, con vừa hái trong vườn hoa nhỏ bé của con, đóa hoa đẹp nhất và trái cây thơm ngon nhất, để giờ đây đặt vào vòng tay từ bi của THIÊN CHÚA Nhân Lành mà Đức Cha là vị Đại Diện. Con khẩn cầu THIÊN CHÚA cho hoa quả này sinh ích lợi dồi dào, hầu gặt hái nhiều linh hồn cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau.

Và bởi vì THIÊN CHÚA Nhân Lành vui thỏa trong đức vâng lời khiêm hạ của tạo vật chót cùng trong các tạo vật, nên con xin kết thúc với lời của Đấng mà trong lòng Từ Bi bao la, THIÊN CHÚA đã ban cho con như là Người Mẹ, Vị Bảo Trợ và là Đấng Gương Mẫu. Cũng chính với những lời này mà con bắt đầu khi khởi sự viết cuốn Hồi Ký: ‘‘Này con là nô bộc THIÊN CHÚA. Xin Ngài tiếp tục sử dụng nữ tì nô bộc này bao lâu Ngài muốn, tùy theo thánh ý của Ngài”.

Tái bút. Con quên thưa với Đức Cha rằng, khi em Giaxinta đi nhà thương ở Vila Nova de Ourem và ở Lisboa thì em biết rõ em không đi để được lành bệnh, nhưng để chịu đau khổ. Rất lâu trước khi người ta tính đến chuyện đưa em vào nhà thương ở Vila Nova de Ourem, thì một ngày, em đã nói với con rằng:
- Đức Bà muốn em đi nằm hai nhà thương, nhưng không phải để được chữa lành bệnh mà để chịu đau khổ nhiều hơn, vì lòng mến Chúa và vì các người tội lỗi.

Con không biết rõ những lời chính xác Đức Bà nói với em, trong những lần Đức Bà hiện ra riêng với em, vì con không bao giờ hỏi em. Nhưng con chỉ nghe em nói lại một vài câu rời rạc mà thôi.

Rất có thể khi đọc bản văn này, người ta có cảm tưởng là trong làng, không ai thèm làm bạn hoặc thương mến con cả. Sự thật không phải như thế. Một nhóm nhỏ được chọn trong đàn chiên Chúa tỏ dấu đặc biệt thương mến con. Đó là các trẻ em. Các em chạy theo con với niềm vui như điên, và khi các em biết con chăn cừu gần làng thì chúng kéo đến cả nhóm để chơi đùa với con suốt ngày. Mẹ con thường nói: ‘‘Mẹ không biết có cái gì lôi cuốn lũ trẻ. Chúng nó vui mừng chạy theo con như đi trẩy hội!” Phần con, lắm lúc con lại không cảm thấy thoải mái giữa những tiếng ồn ào náo động ấy, nên con tìm cách trốn vào nơi kín.
Điều này cũng xảy ra nơi các bạn học của con tại ký túc xá Vilar ở Porto. Và giờ đây, con cũng có thể nói như thế với các nữ tu cùng dòng với con. Cách đây vài năm, Mẹ Giáo Tập, ngày nay là Mẹ Giám Tỉnh, nói với con:
- Chị à, chị rất có ảnh hưởng trên Chị Em, nên nếu chị muốn, chị có thể giúp Chị em rất nhiều điều lành.
Cách đây không lâu, Mẹ Bề Trên nói với con tại Pontevedra rằng:
- Chị à, chị chịu một phần nhỏ trách nhiệm trước mặt Chúa, về tình trạng sốt sắng hoặc trể nãi của Chị Em trong việc tuân giữ luật phép dòng, bởi vì, lòng đạo đức tăng cao hoặc nguội lạnh đi trong các giờ giải trí, tùy theo các giờ giải trí Chị Em chơi chung với chị. Nhờ cuộc trò chuyện của chị trong giờ giải trí mà chị này chị nọ được thêm hiểu biết luật phép nhà dòng và quyết định tuân giữ nó cách đúng đắn hơn.

Lời Mẹ Bề Trên nói có ngụ ý gì, con không rõ. Có lẽ đó là đồng tiền Chúa trao cho con và con phải trả lẽ trước mặt Chúa. Xin Chúa cho con được biết dùng đồng tiền cho nên, hầu sinh lợi gấp ngàn lần để trao trả lại cho Chúa.

Có lẽ có người sẽ hỏi con: ‘‘Nhưng làm sao chị có thể nhớ hết các điều chị vừa kể?” Con không biết phải trả lời như thế nào. THIÊN CHÚA Nhân Lành khi phân phát các hồng ân của Người, đã cho con một ít trí nhớ. Ngoài ra, có sự khác biệt giữa điều tự nhiên và điều siêu nhiên. Chẳng hạn, khi chúng ta nói trong tư cách là tạo vật thuần túy thì từ từ chúng ta quên đi những điều đã nói. Trong khi những điều siêu nhiên, càng được thấy và được nghe, thì càng ghi khắc sâu trong tâm hồn, khiến chúng ta không thể nào quên được.

Thưa Đức Cha, con đã viết ra tất cả những gì Đức Cha truyền cho con phải viết trong lúc này. Cho tới nay, con thường tìm mọi cách để dấu những gì liên quan đến các cuộc Đức Mẹ hiện ra nơi đồi Cova-da-Iria mang khía cạnh sâu kín nhất. Cứ mỗi lần con bị bó buộc phải đề cập đến, con thường nói thoáng qua, để khỏi phải tỏ lộ hết mọi điều con muốn giữ kín cho riêng con. Nhưng nay vì đức vâng lời bó buộc, con đã nói ra những gì con phải nói.

Giờ đây con giống như một bộ xương, bị tước đoạt hết sự sống và được trưng bày nơi Bảo Tàng Viện Quốc Gia để nhắc nhở du khách đến viếng, nghĩ về cái hư không của con người. Con cũng ở lại nơi Bảo Tàng Viện thế giới để nhắc mọi người qua lại nhớ đến những gì đã xảy ra, không phải cái khốn khổ bần cùng, nhưng là nét cao cả lớn lao của lòng nhân hậu THIÊN CHÚA.

Nguyện xin THIÊN CHÚA Nhân Lành và Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ MARIA đoái thương khấn nhậm mọi hy sinh bé nhỏ con dâng lên các Ngài để khơi động trong các linh hồn tinh thần Đức Tin, lòng tín nhiệm và tình yêu!

(‘‘Lucie raconte Fatima”, Fatima-Editions, 1976).