CHÚ GIUSE HỮU, HỌ CHỢ MỚI.
Chúa Quan Phòng đã đưa dẫn chúng tôi tìm ra tài liệu liên quan đến cuộc tử
đạo của hai chứng nhân đức tin trẻ tuổi của tỉnh Khánh-Hòa thuộc giáo phận
Nha-Trang. Chú Giuse Hữu và Chị Anê Dần. Chú
Giuse Hữu thuộc giáo xứ Chợ-Mới và Chị Anê Dần thuộc giáo xứ Bình Cang.
Hài cốt hai vị tôi tớ Chúa Giuse Hữu và Anê Dần hiện được chôn cất
tại nghĩa trang Chợ Mới, trong cùng phần mộ với một số tín hữu công giáo
khác, chết vì đức tin trong khoảng thời gian 1858-1862. Đó là thời
kỳ vua Tự-Đức (1830/1848-1883) ra các sắc dụ cấm đạo gay gắt cùng với lệnh
phân sáp, tức là phân chia tản mát người công giáo vào trong các
làng ngoại giáo. Chú Giuse Hữu và Chị Anê Dần chết vì đạo trong năm
1860.
Hồ sơ tử đạo của Chú Giuse Hữu họ Chợ-Mới, được giáo phận Đông
Đàng Trong, hoàn thành cùng với 19 vị tử đạo khác. Hồi ấy giáo phận
Đông Đàng Trong trải dài từ Quảng Nam đến Bình Thuận với Tòa Giám
Mục đặt tại Qui Nhơn, do Đức Thánh Cha Pio IX thiết lập ngày
27.08.1850. Đứng đầu danh sách 20 vị chứng nhân đức tin là linh
mục Phaolồ Châu. Hồ sơ được gởi về Tòa Thánh
đầu thập niên thế kỷ 20, dưới thời Đức Thánh Giáo Hoàng Pio 10
(1903-1914). Trong danh sách 20 vị tử đạo Đông Đàng Trong có 4 linh
mục: cha Phaolồ Châu, cha Giuse Thủ, cha Đaminh Cảnh, cha Giuse
Chung; 1 thày giảng: thày Giuse Trinh; 2 thày giáo: Giacôbê Tuyền và
Giuse Quờn; 2 dì phước Mến Thánh Giá: nữ tu Anê Soạn và nữ tu Anna Trị; 8
giáo dân, 7 nam 1 nữ: quí vị Tađđêô Quí, Phêrô Me, Giacôbê Quả, Hứa, Nam,
Tận, Giáo và bà Mađalêna Lựu. Ngoài ra có 2 thiếu niên: chú Giuse Nghiêm
và Giacôbê Bảo.
Hồ sơ tử đạo của Chị Anê Dần họ Bình-Cang, được thiết lập sau đó
và nhập chung với 20 vị tử đạo trên đây. Tất cả được gởi về Tòa Thánh đầu
thập niên 1920, dưới thời Đức Giáo Hoàng Benedetto 15 (1914-1922). Sau
cùng, có thêm hồ sơ tử đạo của Cha Giuse Sĩ thuộc giáo phận Đàng
Ngoài. Như thế, linh mục Phaolo Châu đứng đầu danh
sách 22 vị tử đạo được Tòa Thánh công nhận là các vị Tôi Tớ Chúa.
Trước tiên là cuộc tử đạo của Chú Giuse Hữu, 23 tuổi, qua lời cung
khai của bà Martha Sang, thân mẫu chú Hữu. Thật ra Chú Hữu có
tên thánh Phaolô, nhưng không hiểu tại sao người ta truyền miệng
nhau thành Giuse. Vì thế, Chú Hữu được biết đến với tên
Giuse Hữu và được ghi vào hồ sơ xin phong thánh là Giuse Hữu.
Chúng tôi cũng xin dùng tên gọi chính thức Chú Giuse Hữu.
Bà Martha Sang, cung khai trước tòa án giáo phận:
Chú Hữu sinh tại Ngọc-Toản, giáo xứ tỉnh Khánh-Hòa,
ngày 27 tháng 12 âm lịch năm Đinh-Dậu 1837. Thân phụ là Vinh-Sơn
Ngữ, thân mẫu là Martha Sang. Ba ngày sau khi sinh ra, Hữu
được rửa tội và nhận tên thánh Phaolo. Cha mẹ Hữu làm ăn khá giả.
Ông bà gởi chú đến trường, nơi đây Hữu trổi vượt về trí thông minh
và lòng khiêm hạ. Sau này, khi bắt đầu có tuổi khôn, Hữu thường lập
đi lập lại mình sẽ không sống lâu dưới mái ấm gia đình.
Thật vậy, vào năm Quí-Sửu 1853, Hữu theo giúp cha Thới ở
Phan-Rang. Nhưng Hữu không ở được lâu, vì chẳng mấy chốc bị
sốt, Hữu phải trở lại gia đình uống thuốc. Một thời gian sau, cha
Thới đi Quảng-Nam, ghé qua nhà, thấy Hữu đã bình phục, cha
liền đem Hữu theo giúp cha. Hữu trở lại gia đình sau đó
vài tháng. Lần này, Hữu gặp cha Bảo là cậu ruột. Con không rõ
hai cậu cháu nói gì với nhau, chỉ biết rằng ngay sau đó Hữu đến xin
cha mẹ cho phép theo Cậu lên ở với người Thượng. Hữu còn thúc giục
một người cậu khác đi theo, đó là Lộc. Sau đó ít lâu, cha Bảo
sai Hữu xuống Bình-Định, nhưng rồi Hữu bị kẹt lại đây
không trở lên với người Thượng được, vì đâu đâu cũng bị canh giữ cẩn mật.
May mắn, Hữu gặp được người quen là cai Lý, thừa lệnh quan,
đưa tù nhân đến Bình-Định. Các tù nhân này là tín hữu công giáo
thuộc miền Hạ Nam, bị đày ra Bắc, và trên đường đi thường ghé vào
các xứ đạo xin của bố thí. Hữu hỏi thăm cai Lý tin tức tình
hình quê nhà, rồi theo cai Lý trở về với cha mẹ.
Về đến nhà, Hữu gặp cha Vệ và theo giúp cha Vệ ngay. Lúc này
đây, có tin y sĩ Tiểu bị giết vì đạo tại Phan-Rang. Nghe
tin, Hữu con trai con liền nói với cha Vệ, trước mặt thân phụ
mình rằng: "Xin Chúa cũng cho con được thông phần một chút vào hạnh phúc
của thày thuốc Tiểu". Cha Vệ trả lời: "Có lẽ điều này sớm
muộn gì cũng xảy đến cho con". Và quả thực điều ấy đã xảy ra.
Ít lâu sau, các quan ra lệnh lùng bắt các tín hữu công giáo. Chúng con
cũng bị bắt, chồng con và con, và bởi vì chúng con không chịu chối đạo nên
bị giải lên phủ.
Lúc đó cha Vệ và chú Hữu chạy trốn. Tuy nhiên, không bao
lâu sau, chú Hữu trở về nhà phước để chế thuốc, phòng sử dụng
khi cần. Thấy bóng Hữu, dân làng nghĩ là cha Vệ, nên tức tốc
báo cho quan biết. Quan liền đưa lính đến bao vây nhà phước, nhưng con trai
Hữu con đã nhanh chân tẩu thoát.
Hữu chạy ra Ninh-Hòa trốn nơi nhà ông câu Thuận. Nhưng
các quan biết được ông Ngữ có đứa con trai theo giúp linh mục, liền cho
người lùng bắt. Ông câu Thuận thấy chú Hữu không có an ninh nơi nhà
mình, liền đưa Hữu ra Đồng-Quan và gởi gắm cho một người bà con
là ông câu Bằng. Ông Bằng dấu Hữu vào chỗ gọi là
Bàu-Lác. Nhưng chú Hữu thấy nơi ẩn không an toàn nên trốn vào
Mỹ-Ngọc, rồi từ đây, băng rừng, chạy qua Quán Đồng-Nai. Vẫn
thấy không ổn, chú Hữu lại chạy xuống Cồn-Cạn và trốn nơi nhà
thày thuốc Thắm. Ở nơi trú ẩn cuối cùng này, vẫn thấy mình còn bị
theo đuổi, nên chú Hữu quay trở lại Mỹ-Ngọc và trốn trong một
cái chòi cao dùng để canh ruộng, nhưng người ta đã bỏ hoang.
Trong thời gian này, con bị các quan hành hạ dữ dằn, nên ông Ngữ nhà con
quyết định xin quan cho lính đưa về nhà và sai người đi tìm chú Hữu
ở Ninh-Hòa. Ông nhà con truyền cho con trai phải ra trình diện các
quan. *** Hữu vâng lời thân phụ và trở về nhà ***. Không thấy cha
ở nhà, Hữu cho người ra phủ báo tin cha biết mình đã trở về. Ông Ngữ
con lại được lính dẫn về nhà lần thứ hai và trở lên phủ với con trai. Trước
tiên ông nhà con đưa Hữu đến kho chứa lương thực, nơi con bị giam với
các dì phước. Vừa trông thấy Hữu, con òa lên khóc và nói: "Con
ơi, hãy vui lòng chấp nhận những gì Chúa dành cho con; hãy ý tứ đừng nói
điều gì gây hại cho người khác". Hữu trả lời: "Mẹ an tâm, đừng
lo sợ gì cả. Con cương quyết thực thi thánh ý Chúa đến cùng".
Sáng hôm sau, cả hai cha con phải ra trình diện các quan. Quan thẩm
vấn và tra hỏi cho biết vị đạo trưởng đang trốn ở đâu, đồng thời bắt buộc
hai cha con phải chối đạo, nhưng vô ích. Người ta còn ép buộc con trai
Hữu con phải thú nhận mình là đạo trưởng: nhưng Hữu quyết liệt
từ chối.
Ngày kế tiếp, chúng con bị điệu riêng ra tòa, con gái Châu con và con.
Người ta dùng roi đánh chúng con. Họ còn dùng kế bảo rằng: "Ông Ngữ bà
và con trai đã chối đạo, tại sao bà và con gái không bắt chước hai người
kia chối đạo luôn?". Con trả lời không hay biết gì về vụ hai cha con
chối đạo, nhưng cho dù có thật như thế, con gái con và con vẫn không
chối đạo. Vào cuối buổi thẩm vấn, con xin phép quan lớn về nhà lấy đồ. Con
nói: "Ở đây chúng tôi quá đông, lại không có đủ lương thực và quần
áo". Khi con từ nhà lên phủ, mang theo lương thực và quần áo cho con
trai con thì các quan đã tống giam Hữu vào nhà tù có tường bọc kín.
Con vào tù và chứng kiến mức độ tàn nhẫn nào người ta đã hành hạ con trai
con: toàn thân Hữu chỉ còn là vết thương đỏ tươi và quần Hữu
thấm đầy máu. Hữu nằm yên không đứng dậy được, lại phải mang gông ở
cổ và cùm ở chân, Hữu đau đớn khủng khiếp. Chung quanh Hữu có
lính canh cẩn mật, họ còn giăng giây để không người nào có thể đến gần
Hữu. Trông thấy cảnh tượng ấy, con òa lên khóc, rồi con an ủi
con trai con và khuyên con bằng lòng chịu khổ để đền tội mình. Con dặn dò
Hữu: "Nhưng nhất là con hãy hết sức ý tứ, đừng xưng thú điều gì
gây hại cho người khác". Hữu trả lời: "Xin mẹ đừng khóc, kẻo
làm mất lòng Chúa, và cầu nguyện thật nhiều cho con. Mẹ trở lại thăm con
trong ba hay bốn ngày nữa". Và con lui ra khỏi phòng giam.
Một ngày, người ta đưa ông Ngữ nhà con, hai con Hữu-Châu và
con, cả bốn chúng con ra trước tòa quan án. Người ta trói chặt tất cả
chúng con vào các trụ đóng dưới đất. Hai bên chúng con, mỗi người đều có
một bên là người lính tay cầm roi và bên kia là viên lục sự ghé sát vào
đầu để ghi tất cả những câu chúng con trả lời quan án hỏi cung. Lính đánh
chúng con 10 roi, rồi ngừng, và viên lục sự thúc ép chúng con phải khai
nơi trú ẩn của vị đạo trưởng hay ít ra chối đạo để được trả tự do. Cứ mỗi
lần chúng con từ chối một điều, liền bị lính đánh 10 roi, và con không thể
quả quyết người ta đã đánh chúng con bao nhiêu lần 10 roi như thế. Con chỉ
biết một điều là con trai Hữu con bị ngất lịm ở lần đánh thứ 8. Các
quan thấy thế liền ra lệnh lính cởi trói và khiêng Hữu đặt nằm trước
công đường và nói: "Nó không khai gì được nữa, thôi cứ để nó nằm yên
đó". Phần chúng con, đâu dễ dầu gì được buông tha nên người ta tiếp tục
đánh đập và tra khảo chúng con .. Sau lần tra tấn dữ dằn ấy, mỗi người bị
đưa về nhà giam.
Con trai Hữu con dần dần hồi tỉnh ít lâu sau đó, bị khiêng trở
lại nhà giam có tường bọc kín và bị mang xiềng. Hữu bị giam chung
với các tín hữu công giáo từ Bắc lưu đày vào đây. Kể từ hôm ấy, người
ta ngưng đánh đập con trai con vì Hữu quá yếu .. Thế nhưng, cứ mỗi
lần cha mẹ và em gái Châu của Hữu bị điệu ra trước tòa để chịu tra
khảo, lính đều đưa Hữu đến, khi thì khiêng, khi thì dìu đi, và bắt
buộc Hữu phải nhìn về phía cha mẹ và em gái, hầu chứng kiến các hình
khổ của chúng con. Các quan nói với Hữu: "Mi thấy chưa, cha mẹ
mi phải chịu khổ vì mi, vậy mi còn có thể khăng khăng không chịu khai
bất cứ điều gì không?". Cứ như thế, người ta dùng đủ mọi thủ đoạn để
hành hạ chúng con, xong người ta lại tống chúng con vào ngục. Các tín hữu
công giáo miền Bắc giúp đỡ con trai con, nhờ thế, Hữu không phải đói
khát trong tù.
Vài ngày sau, các quan truyền mang ra tòa tất cả các tín hữu bị giam ở
phủ, chối đạo cũng như không chối đạo. Những ai chối đạo được cho
ngồi nơi bóng mát trên chiếu hoa, trong khi các tín hữu không chối
đạo bị bắt nằm giữa sân dưới trời nắng, bị cột vào trụ và bị đánh đòn từ
sáng tới trưa. Con trai Hữu con cũng bị mang ra và trói vào cột, nơi
hàng đầu, trước mắt mọi người. Tuy nhiên, Hữu không bị đánh vì quá
yếu, các quan sợ Hữu trút hơi thở cuối cùng dưới các lằn roi. Có một
lúc, các quan còn ra lệnh cởi trói cho Hữu và không đợi Hữu
đứng lên, quan thẩm vấn ngay: "Mi đi học bên Tây phải không?". Con
trai con trả lời Không. Quan lại nói: "Mi theo đạo trưởng Thới.
Vậy mi phải khai linh mục này đang trốn ở đâu?". Con trai con đáp:
"Tôi không biết. Khi khởi đầu cuộc bắt bớ các tín hữu, cha Thới chạy
trốn. Tôi không rõ ngài chạy về hướng nào. Phần tôi, tôi trở về nhà cha mẹ
tôi". Quan lại hỏi: "Chính mi cũng là linh mục phải không?".
Hữu đáp: "Không. Tôi không phải là linh mục. Tôi theo giúp linh
mục một thời gian, chỉ có vậy thôi".
Các quan lại nói: "Thôi thì chấp nhận mi không phải là đạo trưởng;
nhưng điều này không quan trọng, bởi vì trước sau gì mi cũng trở thành
linh mục, vì thế, mi bị kết án giống như thể mi là đạo trưởng". Con
trai con vẫn nhất mực không nhận mình là linh mục. Các quan liền nói:
"Nếu mi không phải là linh mục thì mi phải khai chỗ trú ẩn của linh
mục Thới và linh mục Vệ. Mi phải tố cáo ra, hay ít nhất, mi hãy chối đạo
và như thế, mi sẽ được trả tự do". Con trai con vẫn cương quyết trả
lời: "Không, tôi sẽ không bao giờ chối đạo".
Trời đã quá trưa, người ta còn đánh đập lần nữa tất cả các tín hữu tuyên
xưng đức tin. Xong các quan ra lệnh ngưng phiên tòa: mỗi tù nhân trở lại
nơi mình bị giam giữ. Lần khác, đến phiên chồng con, con gái Châu con và
con phải ra hầu tòa: người ta tra khảo chúng con. Con trai Hữu con
cũng có mặt ở đấy. Người ta mang Hữu ra và ép buộc Hữu phải
nhìn chúng con suốt thời gian người ta hành hạ chúng con, vì người ta nghĩ
rằng, có lẽ nhìn thấy chúng con bị đau đớn khổ sở, Hữu sẽ bằng lòng
chối đạo chăng?. Con trai con muốn ngoảnh mặt đi nơi khác, nhưng mấy người
lính giữ chặt đầu, buộc Hữu phải nhìn về phía chúng con.
Quan truyền bắt một con rắn, trước hết bỏ vào quần áo của con, xong lại bỏ
vào quần áo của con gái Châu con, nhưng rắn không cắn hai mẹ con con. Rồi
người ta lấy kềm nung đỏ và kẹp vào đùi ông Ngữ chồng con, xong, quan hướng
về phía con trai Hữu con và nói: "Mi có thấy cha mẹ mi bị hành
hạ như thế nào không? Sao mi không biết thương xót cha mẹ? Bộ mi không
thương cha mẹ mi sao?". Con trai con trả lời: "Tôi thương cha mẹ tôi
vô ngần. Nhưng tôi có trên Trời một Người Cha cao cả hơn và tôi yêu mến
Ngài gấp bội phần".
Đó là lần hỏi cung sau cùng của con trai Hữu con. Kể từ ngày ấy,
Hữu không còn ra khỏi nhà tù, nơi Hữu bị giam chung với thân
phụ và các tín hữu công giáo miền Bắc nữa.
Để nuôi sống, Hữu dùng tơ lụa thắt quai nón rồi bán lấy tiền.
Hữu đọc kinh chung với các tín hữu tù nhân khác; ngày thứ tư và thứ
sáu, các tù nhân công giáo suy ngắm lớn tiếng 14 Chặng Đàng Thánh Giá.
Trong tù, người ta chưa tuyên án ông Ngữ chồng con và con trai Hữu
con. Tuy nhiên chung chung, người ta nghĩ rằng, nếu hai cha con thoát chết
thì cả hai không tránh được án lưu đày, nhưng có lẽ lưu đày là điều chắc
chắn hơn. Nghe vậy, con liền về nhà, và dọn cho con trai con tất cả
vật dụng cần thiết; thật sự con cũng tin như những người khác có lẽ
con trai Hữu con chỉ bị án lưu đày thôi.
Nhưng người ta đã lầm to. Ngày mùng 8 tháng 8 âm lịch năm Canh Thân
1860, sáng tinh sương, quan tướng, dẫn đầu một đoàn binh lính mang gươm
và giáo, người thì cỡi ngựa, kẻ thì cỡi voi, cùng tiến về phía nhà giam và
đợi trước cửa. Đi phía trước là một người lính mang tấm bảng kết án tử trên
đó có ghi tên con trai con.
Đến trước cửa nhà tù, quan ra lệnh cho người lính cầm giáo hãy vào và đưa
tù nhân Hữu ra. Lúc trông thấy người lính bước vào, một luồng khí
chết chóc kinh hãi chuyển khắp nhà tù, bởi lẽ chưa ai biết người tù nào sẽ
bị đưa đi. Người lính bắt con trai con và dẫn ra.
Lúc đến trước mặt quan lớn, con trai con ngỏ lời xin: "Đã đến giờ Thiên
Chúa định cho tôi. Xin quan lớn cho phép cha tôi ra đây, tôi có đôi lời
thưa với người".
Phần con lúc ấy ở nhà, không mảy may hay biết gì về chuyện đang xảy ra.
Quan lớn chấp nhận ngay lời xin, truyền một người lính vào tù và dẫn chồng
con ra. Tức khắc mọi người nghĩ rằng ông Ngữ nhà con cũng bị đưa đi xử tử.
Con trai Hữu con lúc vừa trông thấy thân phụ, liền nói: "Thưa cha,
đây là ngày và giờ Chúa định cho con. Xin cha mẹ ở lại bằng an, giữ lòng
trung tín cùng Chúa và đừng bao giờ để cho bất cứ người nào có thể lôi kéo
cha mẹ xúc phạm đến Chúa. Vĩnh biệt cha, con xin ra đi vì đã đến giờ".
Và ngay lúc đó quân lính kéo con trai Hữu con đi. Bà vợ ông quan
cầm đầu các viên lục sự, động lòng thương xót con trai Hữu con, đã
dọn cho con trai con một bữa ăn. Khi con trai con đi ngang nhà bà, bà mời
Hữu vào. Con trai con nhã nhặn từ chối với lời lẽ như sau: "Xin
hết lòng cám ơn ông bà, bà cùng chồng bà, vì lòng quảng đại và thương mến
ông bà dành cho tôi. Cho phép tôi biếu lại ông bà với lòng tri ân, tất
cả những gì bà dọn cho tôi và xin vui nhận lời tôi từ biệt ông bà".
Khi đoàn quân ra khỏi cửa phủ và lúc đến chợ, quan truyền lệnh mọi người
dừng lại và mời con trai Hữu con dùng bữa, theo thông lệ người ta dọn
cho các tử tù. Nhưng con trai con từ chối không dùng gì cả nên quan lại
truyền đoàn người tiếp tục tiến bước. Con trai con bước đi cổ mang gông và
chân mang xích.
Đi được một quãng, con trai con thấy những người hàng cá đứng lại đăm đăm
nhìn mình, Hữu liền nói với họ: "Hỡi các bạn, sao các bạn nhìn tôi
như thế? Hãy ở lại bằng an và tiếp tục công việc buôn bán. Phần tôi, tôi
trở về Quê Hương tôi".
Nơi hành quyết là Sông-Cạn, nằm trên lãnh thổ làng
Phước-Thịnh. Khi tới đó, con trai con quì gối xuống, tiếp tục lần
hạt Mân Côi và khẩn cầu danh thánh Đức Mẹ. Đó là điều con suy ra theo lời
một người ngoại giáo sau này kể lại cho con rằng: "Quả thật con trai bà
thương bà lắm: suốt trên đường đi anh ta không ngừng gọi mẹ". Con hiểu
con trai Hữu con đã lần hạt Mân Côi kính Bảy Sự Thương Khó Đức Bà.
Trong lúc con trai con cầu nguyện như thế, binh lính kẻ thì đóng cọc, người
thì mở gông và tháo xích. Người khác nữa lấy dây và trói con trai con vào
cọc, hai tay cột đằng sau lưng. Khi mọi chuẩn bị xong xuôi người ta ra hiệu
lệnh xử tử.
Con không rõ tên lý hình chém tất cả bao nhiêu nhát gươm. Con chỉ thấy sau
đó rằng, ba nhát đầu chỉ gây thương tích nặng nhưng không giết chết con
trai con. Phải đợi đến nhiều nhát nữa mới chém được đầu rơi. Tên lý hình
khinh bỉ ném đầu ra xa, rồi quan quân vội vã kéo nhau về thành.
Các tín hữu lưu đày miền Bắc đã giao cho một phụ nữ ngoại giáo, vợ của một
tù nhân, tấm vải dài khoảng hai hay ba khuỷu tay, - tức khoảng 100 hay 150
phân -, và nhờ bà này đến thấm máu của chú Hữu rồi trao lại cho họ.
Người phụ nữ này đã thi hành đúng theo lời xin của các tín hữu lưu đày miền
Bắc.
Tuy nhiên, dân làng đặt xác con trai Hữu con trong chiếu quấn lại từ
đầu gối lên tới đầu rồi chôn xuống đất. Trong khi đó con ở nhà, không mảy
may hay biết về tất cả những gì vừa xảy ra.
Lúc vừa hay tin, con vội vã chạy ngay đến nơi xử tử, hy vọng tới
kịp, nhưng hỡi ôi, khi con đến nơi thì mọi sự đã xong xuôi, kể cả việc dân
làng đã chôn xác con trai con.
Nơi được chọn để chôn xác rất ẩm ướt. Dây thừng, cọc và tấm bảng ghi án tử
hình vẫn còn bỏ đó, con vội thu hết và dấu trong bụi rậm, rồi, tức tốc
tranh thủ thời giờ, con đi ngay tới nhà ông xã trưởng để xin phép đào xác
Hữu lên và chôn một chỗ đất khác ít ẩm ướt hơn. Xã trưởng từ chối.
Thế là con chạy lên thành, xin với vị quan con gặp đầu tiên. Quan cho phép
liền. Con đi mua ngay ván và vải liệm xác. Nhưng trời đã khuya.
Sáng hôm sau, ngày mùng 9 tháng 8 âm lịch, con đến tận nơi hành
quyết, và được vài tín hữu công giáo họ đạo Hà-Dừa giúp, đào lấy
xác con trai Hữu con lên. Xác vẫn giữ nguyên nét mềm mại và tươi tắn
tự nhiên. Có dấu ba vết gươm chém nơi vai, cổ thì có dấu không biết bao
nhiêu nhát gươm chém khiến bị nát bấy.
Con liền đào lỗ cách đó vài bước nơi đất cao và khô ráo, rồi bọc xác con
trai Hữu con trong tấm vải con mua, xong con lấy từng tấm ván một,
bởi lẽ con không có giờ đặt làm một chiếc hòm, con xếp ba tấm ván
thành một cái hòm, rồi con đặt xác con trai con vào và sau cùng, con lấy
tấm ván còn lại đậy lên trên và lấp đất lại. Phần dây thừng, cọc cây và
tấm bảng ghi án tử hình, con mang tất cả về cất trong nhà con.
Một thời gian ngắn sau đó, các quan ra lệnh bán tất cả các thánh đường. Vào
thời kỳ ấy giáo xứ con chưa có nhà thờ nên các linh mục và thày giảng
thường trú ngụ nơi nhà con. Dân làng biết rõ điều đó nên họ tố cáo nhà con
là nhà thờ nên bán đi. Thế là tất cả các đồ vật kia bị mất hết.
Khi bình yên trở lại và tự do tôn giáo được nhìn nhận, cha Vận bốc di
hài con trai Hữu con và chôn nơi đất thánh Ngọc-Toản, cùng
một chỗ với di hài tất cả các tín hữu công giáo khác bị giết vì Đức Tin.
... Xin trích thuật lời cung khai của ông Vinh Sơn Ngữ, thân sinh
Chú Giuse Hữu.
Theo lời khai của ông Ngữ, Chú Giuse Hữu vâng lời thân phụ ra phủ
trình diện trước tòa án các quan ngày mùng 2 tháng 3 âm lịch năm
Canh-Thân 1860. Một lần, Chú Hữu bị điệu ra công đường và bị bắt
buộc chứng kiến cuộc hành hạ tra tấn cha mẹ cùng em gái tên Châu. Quan nói
với Chú Hữu: "Mi thấy chưa, mi buộc ta phải hành động như thế,
vậy mi có còn khăng khăng nhất quyết không khai báo một điều gì không?".
Chú Hữu trả lời: "Tất cả những gì xảy ra trên đời này, chúng tôi,
những tín hữu công giáo, chúng tôi xin vui lòng chấp nhận, còn chuyện phải
khai báo, tôi cương quyết không tố cáo bất cứ người nào". Một lần khác,
quan giận dữ nói với Chú Hữu: "Nếu mi không chối đạo, ta sẽ kết
án tử mi như là linh mục, tức là đạo trưởng". Chú Hữu đáp:
"Tôi không phải là linh mục, tuy nhiên, quan cứ xử sự tùy ý, tôi không
chống cưỡng".
Trước khi bị điệu đi hành quyết, quan hỏi Chú Hữu lần cuối có bằng
lòng chối đạo không, Chú Hữu trả lời: "Tôi bằng lòng chết hơn là
chối bỏ Thiên Chúa tôi tôn thờ". Xong, Chú Hữu xin quan cho phép
gặp mặt thân phụ để thưa đôi lời. Quan chấp thuận. Vừa trông thấy thân
phụ, ông Vinh Sơn Ngữ, Chú Hữu nói lớn tiếng trước mặt mọi người
rằng: "Thưa cha, đã đến giờ Chúa định liệu cho con. Con hằng ao ước
được chiêm ngưỡng Thánh Nhan Thiên Chúa diện đối diện. Hỡi cha mẹ cùng các
chị em con, những người còn ở lại trần gian sau con, xin hãy cố gắng sống
trung thành với Thiên Chúa. Đừng sợ những kẻ ở đời này đến nỗi chối bỏ
Thiên Chúa!".
Trong đoàn quân đưa Chú Hữu đến nơi tử hình có viên lục sự tên
Mai, mẹ là người công giáo và chú lính Đá là người công giáo
quê làng Tiên-Hương. Hai người này đã kể lại cho ông Vinh Sơn
Ngữ vài diễn tiến trên đường bị điệu đi xử như sau. Chú Hữu không
ngừng lần hạt Mân Côi Bảy Sự Thương Khó Đức Bà và cầm tượng Thánh Giá giơ
cao trước mắt. Quan muốn cất lấy Thánh Giá, nhưng Chú Hữu thưa:
"Đây là bảo vật duy nhất của tôi, xin quan vui lòng cho tôi được sử
dụng như lòng tôi mong ước, trong quảng thời gian ngắn ngủi còn lại của
đời tôi. Khi tôi chết rồi, quan muốn làm gì tùy ý". Chú Hữu liên
tục đọc kinh cho tới chỗ bị hành quyết. Đến nơi, quan truyền tháo gông tháo
xích và trói Chú Hữu vào cọc cắm dưới đất. Lúc ấy, lính lấy Thánh Giá
khỏi tay Chú Hữu và trao cho quan.
... Sau đây là lời khai của ông Micae Nguyễn Hữu Quảng. Ông là
con trai bà Anna Vĩnh, chị ruột Giuse Hữu. Thân phụ ông Quảng
người Tàu, quê tỉnh Quảng-Đông, tên Đaminh Điền. Vào năm
Canh-Thân 1860, khi xảy ra cuộc bắt đạo và giết hại Giuse Hữu,
là một thiếu niên 12-13 tuổi. Thiếu niên Quảng biết rõ cậu ruột và hết
lòng quí mến cậu.
Ông Micae Nguyễn Hữu Quảng làm chứng trước tòa án giáo phận Đông Đàng
Trong vào năm 1920 như sau. Cha mẹ Giuse Hữu cho con trai theo giúp
Cha Vệ, cha sở họ đạo Nha Trang. Con thường thấy cậu con giúp lễ khi cha
Vệ cử hành thánh lễ trong nhà ngoại con, ông câu Ngữ, vì gia đình ba má
con sống cùng nhà với ông bà ngoại con. Thỉnh thoảng con thấy cậu
Hữu con rước lễ, khoảng một hai lần mỗi tháng, vì vào thời kỳ ấy,
bổn đạo chưa được phép rước lễ thường xuyên như bây giờ. Cậu con có
tính tình hiền lành và ôn hòa. Con không thấy cậu con cãi vã to tiếng với
ai bao giờ.
Một ngày, các quan truyền đưa ông câu Ngữ ra tòa và hỏi tại sao con trai
Hữu ông không có mặt nơi nhà cha mẹ. Thật vậy, Hữu theo cha
Vệ trốn lên núi và có ai đó đã báo cáo cho quan biết. Ông câu Ngữ bị đánh
đập tàn nhẫn. Ông liền nhắn con trai phải trở về và nộp mình, nếu cần.
Có lẽ Hữu sẽ bị giết, nhưng chịu vậy còn hơn là chạy trốn và để cho cha mẹ
phải khốn khổ vì mình.
Giuse Hữu vâng lời thân phụ và trở về nhà cha mẹ.
Khi cậu con về tới nhà, trời đã tối, khoảng 9 hay 10 giờ đêm. Lúc ấy ở
nhà còn chị cả con 14 tuổi, con và em trai con khoảng 5 tuổi. Ba
chị em con giữ nhà. Về tới nơi, cậu con dùng bữa tối. Sau bữa ăn, con hỏi
cậu: "Ngày mai cậu đi đâu?". Cậu con trả lời: "Ngày mai cậu ra phủ
trình diện quan". Con hỏi tiếp: "Và nếu quan truyền giết cậu thì
sao?". Cậu con nói: "Cũng được, quan muốn làm gì tùy ý". Sáng sớm
hôm sau, cậu con lên phủ, không mang gì cả. Con theo cậu xa xa, không
dám đi chung với cậu.
Đến phủ, cậu Hữu con đi thẳng vào công đường. Đúng lúc ấy, ông bà
ngoại con đang có mặt nơi tòa án, bị cột vào trụ và đang bị các quan tra
khảo. Cậu con tiến đến trước mặt quan và nói: "Thưa quan, tôi là Hữu,
người mà quan lùng bắt". Quan nói ngay: A, vậy ra mi đúng là linh
mục Hữu, đạo trưởng, từng đi học bên Tây và trở thành linh mục phải
không?". Cậu Hữu con trả lời: "Không, tôi không phải là linh
mục và tôi không hề đi học bên Tây". Quan liền nói: "Vậy thì hãy đạp
lên ảnh và bước qua Thánh Giá". Có một Thánh Giá và một tượng ảnh Đức
Mẹ bỏ dưới đất, nơi công đường. Cậu Hữu con nói: "Quan lớn có thể
chặt đầu tôi, nếu muốn, nhưng quan không thể nào làm cho tôi bước qua
Thánh Giá". Nghe câu trả lời khẳng khái như thế, quan liền truyền lính
đánh cậu con 30 roi và tống vào ngục có tường phủ kín.
Năm ấy con là một thiếu niên 12-13 tuổi, nên con không thể quả quyết
đời sống đạo đức cậu con như thế nào trong ngục. Con chỉ có thể làm chứng
chắc chắn một điều là cậu con liên lĩ lần hạt Mân Côi. Trong tù, các
tù nhân khác tỏ ra thương xót cậu con vì biết rằng cậu con không thoát
chết. Nhưng cậu con trả lời nếu phải chết, cậu con sẵn sàng chấp nhận,
không than trách.
Một ngày, con được chứng kiến cảnh tượng sau đây. Các quan truyền đưa ra
tòa cậu Hữu con cùng với cha mẹ. Quay nhìn cha mẹ Hữu quan nói
lớn, giọng khinh bỉ: "Mấy người thật vô dụng, cho ra chào đời một thằng
con không ra gì. Mấy người không biết dưỡng nuôi dạy dỗ nó, bởi vì, sống
trên đất vua, ăn cơm vua, vận y phục bằng chính vải vóc vua ban, vậy mà dám
cãi lời vua dạy". Thế là cậu Hữu con liền đáp lại lời quan rằng:
"Thưa quan lớn, điều quan vừa nói không đúng sự thật. Thật ra tôi sống
trên đất nước thuộc về Chúa Cả trời đất, tôi ăn cơm và mặc áo bằng chính
của cải thuộc về Chúa Cả trời đất. Những gì nhà vua hưởng dùng, ngay cả một
con cá bé tí teo đi nữa vua dùng để nuôi sống thân xác, tất cả cũng đều
thuộc về Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa dựng nên muôn vật muôn loài".
Nghe những lời nói khẳng khái ấy, quan đùng đùng nổi giận, quát lớn với cậu
Hữu con rằng: "Trả lời như thế tức là mi phạm đến nhà vua, ta sẽ
truyền chém đầu mi". Nói xong, quan ra lệnh đem cậu con trở lại nhà
giam.
Khi cậu Hữu con hay tin các quan đã làm án xử tử mình, cậu con vẫn
giữ bình tĩnh và tỏ thái độ ôn hòa như thường lệ. Cậu con lần hạt liên
miên để dọn mình chết lành. Ngoài giờ ăn ngủ, cậu con luôn cầm tràng hạt
trong tay.
Khoảng 4,5 năm sau cuộc hành quyết cậu Hữu con, ông ngoại con xin cha
Vận, lúc bấy giờ là cha sở Nha Trang, cho phép hốt cốt con trai
Hữu mình, cũng như tất cả các tín hữu đã chết vì đức tin trong thời
kỳ gọi là phân sáp. Khi được sự chấp thuận của cha Vận, ông ngoại con
lên phủ, hốt cốt cậu Hữu con, cùng với thiếu nữ Dần và 5 tôi tớ Chúa
khác.
Người ta đặt làm 7 quan tài nhỏ, bên ngoài có khắc tên 7 tôi tớ Chúa và đào
trước một huyệt thật lớn. Cả 7 quan tài được đưa về họ Chợ-Mới và đặt nơi
nhà ông ngoại con trong vòng 2 ngày. Sau đó cha Vận làm phép 7 quan tài và
các tín hữu vừa đi vừa đọc kinh, long trọng đưa hài cốt các vị chứng nhân
đức tin ra nghĩa trang Chợ Mới. Tất cả được đặt vào một huyệt chung, lấp
đất lại và trên huyệt, dựng một cây thánh giá lớn bằng gỗ.