BÍ TÍCH THÁNH THỂ


Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt

... Lạy Chúa GIÊSU đang ngự thật trong Bí Tích Thánh Thể vì yêu con .. con xin vĩnh viễn dâng hiến Chúa trọn người con. Con xin từ khước tất cả những gì thuộc quyền con, để làm lễ tế dâng lên Chúa hầu Chúa trở thành Đấng duy nhất ngự trong con, nguyên lý tuyệt đối cuộc đời con. Xin Chúa điều khiển mọi hoạt động của con. Không còn gì cũng chẳng có gì thuộc về con, ôi Chúa GIÊSU dấu ái của con! Xin Chúa ngự vào lòng con, linh hồn con và chữa con khỏi bệnh hoạn tật nguyền ..

Đó là lời thề anh Giovanni Nadiani (1885-1940) dâng lên Chúa GIÊSU Thánh Thể khi gia nhập dòng Thánh Thể. Anh bắt đầu Năm Tập thứ nhất tại Castelvecchio di Moncalieri, tỉnh Torino (Bắc Ý) năm 22 tuổi. Anh quyết định chọn dòng Thánh Thể vì được hồng ân Chúa GIÊSU Thánh Thể lôi cuốn vào Tình Yêu vô biên của Ngài. Lời mời gọi của các tu sĩ Thánh Thể do thánh Pierre Julien Eymard (1834-1868) sáng lập cũng thu hút anh: “Nếu Chúa GIÊSU sống động và ngự thật trên bàn thờ cũng như trong Nhà Tạm, nếu Ngài là tất cả, thì sao bạn lại muốn tìm kiếm nơi khác? Hãy đến với Ngài và bạn sẽ tìm thấy tất cả!”

Nơi Tập Viện thầy Giovanni được giao nhiệm vụ coi nhà Mặc Áo (Phòng Thánh). Thầy tận tâm chu toàn công việc và rất sung sướng vì được dịp ở gần Chúa GIÊSU Thánh Thể, Đấng ngự trong Nhà Tạm. Ngày 7-11-1909 thầy Giovanni bắt đầu tuần tĩnh tâm chuẩn bị tuyên khấn. Thầy hân hoan với ý nghĩ rồi đây mình sẽ thuộc trọn về Chúa GIÊSU KITÔ. Trong đơn xin tuyên khấn gửi lên Cha Bề Trên Cả, thầy Giovanni Nadiani viết: Con vui mừng biết bao! Con phấn khởi với ơn gọi thiên thần của con! Con nồng nhiệt ước muốn làm cho mọi người biết đến Chúa GIÊSU, Chúa GIÊSU Thánh Thể dấu ái của lòng con! Nếu Chúa muốn con trở thành Linh Mục, thì ngay khi vừa lãnh chức phó tế, con sẽ chạy như bay qua các thành thị. Con sẽ giơ cao Mặt Nhật Mình Thánh Chúa, để mọi người trông thấy Chúa GIÊSU Thánh Thể và con sẽ nói với họ: ”Đây là Ngôi Lời của Thiên Chúa trở thành Bánh Thánh nuôi sống! Đây là Tình Yêu! Đây là Tình Yêu! .. Thế nhưng Chúa muốn con phụng sự Người trong chức vụ tu huynh, và chính lòng con cũng ao ước như thế ..”

Sau khi tuyên khấn, thầy Giovanni chu toàn các công tác khiêm tốn như: lo nhà Mặc Áo, y tá, giúp văn phòng báo chí của dòng và quét dọn nhà cửa. Qua bất cứ công việc nào, dù nhỏ mọn đến đâu, thầy Giovanni cũng chỉ có một mục đích duy nhất. Thầy không ngừng lập đi lập lại: “Cuộc đời tôi là để cầu nguyện. Bất cứ lúc nào, nếu có ai hỏi tôi đang làm gì, thì tôi chỉ trả lời: tôi đang thờ lạy Chúa GIÊSU KITÔ ..”

Chúa GIÊSU Thánh Thể gồm trọn lý tưởng sống cuộc đời thầy Giovanni. Thầy ghi trong nhật ký: “Chúa GIÊSU Thánh Thể là Đấng chỉ đạo, là nhiệt huyết, là mặt trời, là tình yêu, là sự thiện và là tất cả cuộc đời tôi”. Như thế, dầu không phải nhà giảng thuyết hùng hồn hoặc nhà truyền giáo nổi danh, thầy Giovanni vẫn có thể trở thành vị đại tông đồ của Chúa GIÊSU. Bởi vì, qua thầy, Chúa GIÊSU trở thành mặt trời soi chiếu đường đi cho vô số anh chị em đồng loại. Thầy giống như Mặt Nhật Mình Thánh Chúa, không nói, cũng chẳng hề áp đặt điều gì cho ai, nhưng để trưng bày và chiếu sáng Chúa GIÊSU KITÔ trước mặt mọi người.

Tháng 8 năm 1914 đệ nhất thế chiến bùng nổ với chiến tranh khai mào giữa hai nước Áo và Serbi. Tháng 5 năm 1915, nước Ý nhảy vào vòng chiến. Thầy Giovanni tha thiết cầu nguyện xin Chúa ban ơn Hòa Bình cho thế giới. Thế nhưng, khi nhận lệnh nhập ngũ, thầy mau mắn tuân hành. Thầy hy sinh cởi bỏ “tu phục” để khoác lên mình “chiến y”. Chỉ có điều đặc biệt, thầy để bộ râu ra rậm và dài, chứng tỏ cho mọi người thấy thầy là tu sĩ mang quân phục!

Nơi chiến trường thầy Giovanni Nadiani anh dũng phục vụ. Thầy xung phong đi hàng đầu trong các trận đánh khốc liệt. Thầy cũng xin cấp trên cho phép mang Mình Thánh Chúa đến các binh sĩ bị trọng thương. Năm 1919, thế chiến chấm dứt, thầy Giovanni sung sướng trở về tu viện. Thầy tiếp tục yêu mến Chúa GIÊSU Thánh Thể và Mẹ MARIA cho đến khi qua đời ngày 6-1-1940, sau 33 năm sống tinh thần “Nhà Tiệc Ly”, nếm trước niềm vui Thiên Quốc!

(Paolo Risso, “GIOVANNI NADIANI”, Editrice Elle Di Ci, 1995).

Ông Casimir và bà Anna là hai hội viên hết lòng với đảng cộng sản Ba Lan. Ông bà chỉ có duy nhất đứa con gái tên Têrêxa, 11 tuổi. Cô bé trông thật xinh xắn mỹ miều. Nhưng bên trong cái nét duyên dáng ấy, lại ẩn chứa một ý chí sắt đá, cương quyết thực hiện cho bằng được điều mình muốn. Và điều cô bé ước muốn: cùng với các bạn gái đồng lứa tuổi chuẩn bị rước lễ lần đầu.

Sau nhiều ngày do dự, Têrêxa thu hết can đảm tỏ bày cùng cha mẹ. Vừa khi hiểu ý con gái, ông bà cảm thấy như đất rung trời sập! Sự nghiệp với đảng bỗng một sớm một chiều tan ra mây khói! Do đó, ông bà dứt khoát trả lời KHÔNG. Trăm lần KHÔNG. KHÔNG có chuyện xưng tội với rước lễ lần đầu! Bởi vì, nếu Têrêxa trở thành tín hữu Công Giáo, tức là ông bà phản bội chủ thuyết vô thần của đảng!

Lúc này đây Têrêxa biết phải làm gì. Cô bé nghĩ ra diệu kế: TUYỆT THỰC. Cô bé vào phòng riêng, lên giường, trùm kín chăn lại. Mặc cho mẹ dỗ ngon dỗ ngọt, Têrêxa vẫn không thay đổi, bao lâu cha mẹ không chấp nhận cho mình rước lễ lần đầu.

Cuộc tuyệt thực chuyển sang ngày thứ ba thì tình hình bỗng trở nên nghiêm trọng. Têrêxa yếu hẳn, giống như người sắp chết. Hai ông bà vô cùng lo lắng. Trong khi đó, Têrêxa đói vô cùng. Cô bé chống đói bằng những ly nước lã và không ngừng lần hạt Mân Côi. Cứ sau một tràng chuỗi, cô bé thêm phần kinh riêng của mình: “Thánh MARIA Đức Mẹ Chúa Trời .. xin cho Ba Má con nhượng bộ gấp, đầu hàng trước, nếu không, chắc chắn con sẽ chết vì đói. Thật ra, con đâu có muốn chết! Tuy nhiên, nếu cần, con sẵn sàng chết, chứ không đổi ý. Vậy xin Đức Mẹ cầu bầu cho con trong giờ lâm tử, nếu con bị bắt buộc phải chết. Nhưng con thích cầu xin Đức Mẹ thay đổi tâm lòng Ba Má con hơn. Con yêu Mẹ nhiều, Người Mẹ Thiên Quốc của con và con hết lòng tin tưởng nơi Mẹ!”

Cầu nguyện xong, Têrêxa trông thấy cánh cửa từ từ hé mở, rồi cả Má lẫn Ba bước vào. Ông Casimir âu yếm hỏi con: “Cưng của Ba, con cảm thấy như thế nào?” Bà Anna ranh mãnh hơn, đánh đúng tâm lý cô bé: “Con không đói sao? Cưng của mẹ?” Têrêxa bật khóc nức nở: “Con đói lắm chứ! Con có thể ăn hết một đĩa bột bắp, ngay lúc này đây, vì con quá đói! Con cũng có thể ăn khoai sống, dưa thối, hoặc bất cứ thức ăn nào người ta vứt đi, bởi vì con quá đói .. Nhưng con nói KHÔNG là KHÔNG. Con đói nhưng con không ăn gì cả. Và Ba Má sẽ chứng kiến cảnh con chết vì đói. Rồi Ba Má sẽ viết trên mộ con: 'Chết vì đói, vì lỗi của Ba Má'. Đúng thật là lỗi của Ba Má vì Ba Má cương quyết không chấp nhận cho con được rước Chúa GIÊSU Thánh Thể!”

Ông bà kinh ngạc nhìn nhau. Đây là lần đầu tiên cô bé thú nhận mình đói. Ông Casimir lợi dụng ngay tình thế. Ông nói: “Con à, Ba Má chỉ muốn điều tốt điều lành cho con. Sao con cứ nằng nặc đòi ăn cho bằng được một tấm Bánh Trắng nhỏ xíu? Nó có là gì đâu! Con ăn rồi cũng giống như chưa ăn. Chỉ có điều khác: nếu con ăn Miếng Bánh này, sự nghiệp Ba Má sẽ tiêu tan. Đảng sẽ loại trừ Ba Má. Vậy con không yêu Ba Má sao? Giờ đây Ba thấy rõ con không yêu Ba Má chút nào hết!”

Têrêxa im lặng nghe Ba nói. Bỗng cô bé ngồi bật dậy, nước mắt dàn dụa: “Ba Má nghĩ con không yêu Ba Má thật hay sao? Sở dĩ con tuyệt thực là vì con yêu Ba Má. Không phải lỗi con, nếu Ba Má không tin nơi Thiên Chúa. Phần con, con tin nơi Thiên Chúa và con tin cho tới chết. Và nếu con không được rước Chúa GIÊSU thật, con cũng có thể rước Chúa cách thiêng liêng bằng lòng ao ước. Và khi con chết rồi, trên Thiên Đàng, con sẽ cầu nguyện thật nhiều cho Ba Má!”

Không chịu thua, bà mẹ nghĩ ra chiến thuật khác. Bà nói với con: “Con tỏ ra thông thạo giáo lý Công Giáo. Con không biết đạo Công Giáo dạy phải vâng lời cha mẹ sao?” Suy nghĩ một chút Têrêxa lý luận: “Phải, con phải vâng lời cha mẹ, nhưng chỉ vâng lời trong điều thiện. Nếu cha mẹ truyền làm điếu xấu thì con cái có quyền không vâng lời. Đây là trường hợp của con. Điều Ba Má dạy con là xấu, vì Ba Má ngăn cản không cho con được rước Chúa GIÊSU. Vì thế, con có quyền thưa KHÔNG. KHÔNG và KHÔNG!

Nói đến đây, cô bé úp mặt khóc nức nở. Khóc vì hờn, vì đói và vì .. “chiến thuật” nữa. Cô bé biết rõ Ba Má rất cưng chìu mình, đặc biệt là Ba! Và Têrêxa đã thành công. Ông bà đành chấp nhận cho cô con gái dọn mình xưng tội và rước lễ lần đầu .. Têrêxa vui mừng không xiết kể. Cô bé dâng lời tạ ơn: “Cám ơn Đức Mẹ dấu ái của con. Chúa ơi, nếu Mẹ không giúp, hẳn là con không đủ sức chiến đấu đến cùng. Giờ đây, con xin Mẹ thay đổi lòng Ba Má con, để Ba Má cũng dọn mình rước Chúa GIÊSU với con. Mẹ làm được mọi sự, bởi vì Thiên Chúa không từ chối điều gì với Mẹ. Con hoàn toàn tin tưởng nơi sự cầu bầu của Mẹ. Amen”.

(MARIA Winowska “Les Voleurs de Dieu”, Editions Saint Paul, 1989, trang 129-137).


Bấm vào đây trở về “Tin YÊU Và Hy Vọng Của Kitô Giáo”

Gương CHỨNG NHÂN