CÁC MỐI PHÚC THẬT

Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt


I. PHÚC CHO NGƯỜI CÓ TINH THẦN NGHÈO KHÓ.

1. Một mẫu gương sống khó nghèo: thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU và Thánh Nhan.

Chúa nhật 19-10-1997, Ngày Thế Giới Truyền Giáo, Đức Thánh Cha Gioan Phaolo 2 đã tôn phong thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU và Thánh Nhan, lên hàng Tiến Sĩ Hội Thánh. Nữ “Tiến sĩ Hội Thánh” thứ ba mươi ba (33) trong Giáo Hội Công Giáo là một nữ tu Dòng Kín Cát-Minh Lisieux, nước Pháp, qua đời ngày 30-9-1897, hưởng dương 24 tuổi.

24 tuổi đời và 100 năm sau ngày sinh nhật trên trời, thánh nữ trẻ tuổi Têrêxa Hài Đồng GIÊSU và Thánh Nhan, đã đạt tột đỉnh vinh quang mà Giáo Hội Công Giáo dành cho một vị thánh! Vị thánh ấy lại là một nữ tu dòng Kín Cát-Minh! Và bí quyết nên thánh của Chị lại hệ tại việc sống cách phi thường tất cả những chi tiết nhỏ nhặt trong đời sống thường ngày và sống tâm tình khiêm tốn, khó nghèo, đơn sơ phó thác của một trẻ thơ..

Trong cuốn Truyện Một Tâm Hồn, Hồi Ký của Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU và được Kim Thiếu - tức linh mục Vũ Đức Khâm - dịch, có đoạn sau đây.

Đức CHÚA GIÊSU dạy rằng: “Ai xin, các con cứ cho, ai lấy gì của các con, cũng đừng đòi lại” (Lc 6,30). Cho mọi người đến xin, chưa thỏa bằng tự lòng quý mà đem đến đãi; và khi người ta xin tử tế mà cho cũng không khó; nhưng chẳng may, người ta dùng lời khiếm nhã, làm cho linh hồn chưa thấm nhuần đức bác ái, bực tức khó chịu, rồi tìm trăm lý nghìn lẽ để thoái thác, hay ít nhất, cũng làm cách để người xin hiểu được họ khiếm lễ đã, đoạn mới làm ơn, hay là hộ giúp chút việc vặt, chút việc vặt ấy giá mà giúp ngay thì chẳng mấy chốc, thế mà đã mất thì giờ gấp mấy để nói lên những lý lẽ không đâu.

Nếu ai xin cũng cho đã là khó, càng khó thay sự để người ta lấy của mình mà chẳng đòi lại. Ôi thưa Mẹ, con nói là khó, lẽ thì con phải nói hình như khó mới phải; bởi vì, “ách Chúa nhẹ nhàng và êm dịu” (Mt 11,30): hễ ghé vai gánh liền thấy dịu dàng êm ái.

Con vừa nói Chúa chẳng muốn con đòi lại của đã bị lấy; với con, lẽ đó cũng rất tự nhiên vì thật con chẳng có chút gì là của riêng tư; con lấy sự túng thiếu làm vui lòng vì nhân đức khó nghèo mà con đã khấn giữ. Trước đây con đã tưởng mình chẳng còn để lòng dính bén của hèn thế gian; nhưng từ khi biết hiểu thấm thía lời Chúa dạy, con mới nhận ra mình còn hèn kém lắm. Chẳng hạn khi con vào bàn vẽ để làm việc, thấy bút mực lộn xộn, hoặc thiếu cái thước, hoặc mất con dao, thì hầu như không nhịn được. Con phải ép mình hết sức mới khỏi thốt ra những cung giọng chua chát khi đòi lại các vật liệu cần thiết ấy.

Đã hẳn, con có thể đòi lại những vật dụng cần thiết ấy mà chẳng lỗi giới răn Chúa, miễn là đòi lại cách khiêm nhượng vui vẻ; nhưng không, con muốn ở như người ăn xin, giơ tay van của bố thí, chẳng được người thương cho thì cũng chẳng lạ lẫm gì, nào ai nợ gì thứ người ăn xin mà đòi!. Ôi! linh hồn biết vươn lên trên những tâm tình tự nhiên ấy, sẽ cảm thấy mình được tràn trề bình an khoan khoái dường nào! Nhất định không có sự vui sướng nào sánh được cùng sự vui sướng của tấm lòng thật sự yêu thích sự khó nghèo.

Kẻ thật lòng nghèo khó, khi thành tâm xin một sự cần thiết mà người ta không cho, người ta lại lấy cả chút mình đang có, sẽ biết làm theo lời Chúa dạy: “Các con hãy cởi cả áo ngoài cho kẻ cố tranh tụng lấy áo trong” (Mt 5,40). “Cởi cả áo ngoài” như con hiểu, là từ bỏ cả chút quyền lợi còn lại, suy mình như tôi bộc, như nô lệ người ta. Một khi đã cởi cả áo ngoài, người ta đi càng dễ, chạy càng nhanh, cho nên Chúa GIÊSU đã phán thêm: “Và bất cứ ai bắt con đi theo một cây số, con hãy theo họ cho tới cây số thứ ba” (Mt 5,40).

Ai xin cũng cho, con chưa lấy đó làm đủ, con phải đi trước lòng ước ao của người khác. Con phải tỏ mình rất hảo tâm, rất hân hạnh được giúp đỡ chị em, và khi ai lấy đồ vật con quen dùng, con ở như sung sướng vì đã bớt được một bận rộn ..

Giáo huấn và tâm tình sống tinh thần nghèo khó của vị thánh Nữ Tiến Sĩ Hội Thánh Têrêxa Hài Đồng GIÊSU và Thánh Nhan, làm liên tưởng đến một câu chuyện xảy ra tại nước Đức. Ngày 7-5-1997, hãng thông tấn Pháp AFP, truyền đi bản tin tựa đề: “Ông chủ quảng đại nhất nước Đức để lại hãng thầu của mình cho một người phu quét đường”. Đó là ông Hans Baranek, 64 tuổi. Ông là chủ hãng thầu quét dọn đường phố ở Nuremberg, thuộc Bang Bavière, miền Nam nước Đức. Hãng ông Baranek có 12 người phu với 21 xe cam nhông dùng để xúc tuyết và quét vĩa hè. Khi đến tuổi về hưu, ông bàn với người em gái, quyết định giao lại hãng thầu của gia đình cho một trong các người phu của ông. Ông nói: Những người làm công trung tín của chúng tôi đã giúp chúng tôi kiếm được nhiều tiền. Vì thế, lẽ nào chúng tôi không để lại hãng thầu của chúng tôi cho họ?.. Và anh Mustafa Berk - một người di dân Thổ Nhĩ Kỳ - 38 tuổi, đã trúng giải. Khi được loan báo tin vui, anh Berk cảm động nói: “Tôi vẫn ao ước được độc lập. Vì thế, lúc nhận tin này, tôi tưởng như mình đang sống trong mơ!”

Thật thế, “tin vui” đẹp như một “giấc mộng”, nghe như chuyện thần tiên. Mọi người chia vui với anh Mustafa Berk - giống như chuột sa hũ nếp - và nức lời ca tụng ông chủ thầu có quả tim vàng! Phúc cho ông Hans Baranek, vì ông có tinh thần nghèo khó, không bám víu vào của cải chóng qua ở đời này!

2. PHÚC CHO NGƯỜI CÓ TINH THẦN NGHÈO KHÓ.

Xin được trở lại một lần nữa với mẫu gương sống tinh thần KHÓ NGHÈO của thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU và Thánh Nhan.

Ông Gioan Trịnh Xuân Vũ (1899-1986) sinh ngày 28-3-1899 tại Ninh Phố, Trung Hoa. Ông là một nhà luật học quốc tế danh tiếng, một nhà nhân bản học đặc sắc, một người đã kết hợp hài hòa những nét tuyệt hảo của nền văn hóa cũ mới Đông-Tây. Sau cùng, ông là một người đã sống đạo Công Giáo một cách toàn vẹn. Khi theo học Luật tại Thượng Hải do giáo hội Mê-tô-đích điều khiển, ông đã xin rửa tội theo giáo hội này. Sau đó, nhờ quen thân với một gia đình Công Giáo đạo đức - gia đình ông Doãn Chí Hoàng - và nhất là, sau khi được đọc truyện thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU và Thánh Nhan, ông Vũ quyết định theo đạo Công Giáo. Ông lãnh nhận bí tích Rửa Tội ngày 23-12-1937, từ tay cha Georges Germain, dòng Tên, Viện Trưởng đại học Bình Minh ở Thượng Hải.

Trong tác phẩm “The Science of Love”, bằng Anh ngữ, ông Gioan Trịnh Xuân Vũ đã viết nhiều chủ đề khác nhau dựa trên đời sống và giáo huấn của thánh nữ Têrêxa thành Lisieux. Xin trích dẫn chương suy tư về cách thức thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU sống tinh thần nghèo khó như thế nào.

“Tình Yêu đem lại Tự Do”. Tự nguyện chọn làm nô lệ tình yêu, Chị Têrêxa đã được tự do như chim trời Bay nhảy. Càng khắng khít chặt chẽ với Hôn Phu của Chị, càng ngày Chị càng không dính bén với tạo vật. Ngay từ khi còn nhỏ, Chị đã thấu triệt “tạo vật hư không nay còn mai mất”:

“Chúa GIÊSU không phải là bạn chí thiết của con sao? Con chỉ biết nói chuyện với Chúa. Nói chuyện với chị em, dù là truyện đạo đức, linh hồn con cũng dễ nhọc mệt lắm. Thật sự, những lúc trơ trọi một mình, nhiều lần con cũng cảm thấy tẻ lạnh. Nhưng con thường hay tự an ủi bằng cách ngâm nga lời thơ đẹp đẽ mà cha con đã có lần đọc cho con nghe: Thế gian không phải là nhà Thuyền con xuôi bến chính là thế gian” (Một Tâm Hồn: MTH). Như thế, Chị Têrêxa đã nhìn thế gian dưới ánh sáng vĩnh cửu và đã dọn đường cho Chị biết thoát ly tư lợi, mặc dù nó quyến rũ Chị. Chị dần dần cắt đứt tất cả các mối ràng buộc khiến phải nô lệ tạo vật: sự ham muốn làm đẹp, sự quyến rũ của nghệ thuật, bản năng chiếm hữu của cải vật chất, hoặc những cái mà Chị gọi là “kho tàng thiêng liêng”:

“Nếu tôi là người có của, tôi không thể nhìn một người đói khát mà không cho ăn uống. Tôi thực hành điều ấy trong đời sống thiêng, tùy kiếm được nhiều ít, tôi đem phân phát ngay cho những linh hồn đang bên bờ vực thẳm trầm vong đời đời. Hành động như thế, thật không còn lúc nào nói được là tôi hành động cho bản thân tôi nữa” (MTH).

Một chị Nhà Tập đã kể lại giai thoại sau đây: “Có người xin tôi chiếc kim đan mà tôi vẫn thích dùng, tôi lấy làm tiếc lắm. Bấy giờ Chị thánh bảo tôi: Ồ, chị giàu có quá! Chị không thể sung sướng được đâu!” (MTH). Lời khiển trách nhẹ nhàng nhưng xúc tích dường nào! Người ta có thể giàu có với một chiếc kim đan, và có thể nghèo khó với một triệu bạc.

Biết Bao người không thoát ly tạo vật! Chiếm hữu một chiếc kim thôi có thể ngăn trở họ lên cao hơn trong Nước Trời. Trái lại, nếu chỉ coi mọi vật như những phương tiện hữu ích để giúp đỡ tha nhân, thì chiếm hữu cả vũ trụ cũng không làm hại tâm hồn họ, vì họ luôn có “tinh thần nghèo khó”. Chị Têrêxa cắt nghĩa bài học bàn tay trắng cho một chị Nhà Tập như thế này:

“Một cách duy nhất cưỡng bách Chúa đừng phán xét ta điều gì hết, là ta ra mắt Chúa với hai bàn tay trắng. Làm sao lại như thế được? Rất đơn giản. Chỉ việc đừng nắm giữ gì cả, có gì thì đem cho hết đi. Phần em, giá mà Chúa cho em sống tới 80 tuổi, em vẫn cứ nghèo như bây giờ, em không biết tần tiện, có cái gì em liền cho phí ngay để mua chuộc các linh hồn. Nếu em cứ cố gắng đợi mãi đến giờ chết mới đưa ra mấy đồng xu nhỏ của em để xin Chúa định giá cho thì có mà chết! Chúa sẽ khám phá ra nhiều rỉ sét ở mấy đồng tiền ấy, và chắc chắn em sẽ bị đem vào lọc lại trong Luyện Ngục” (MTH).

Đối với Chị thánh, chúng ta còn phải thoát ly cả những việc đạo đức riêng tư:

“Chị phải trục xuất những công việc cá nhân, sử dụng một cách ý thức thời giờ đã quy định, nhưng với một tâm hồn dấn thân thực sự. Có lần em đọc thấy dân Israel xây thành Giêrusalem, một tay xây, một tay cầm gươm. Đó là hình ảnh mà chúng ta phải làm, chứ đừng để mình hoàn toàn bị thu hút vào công việc!”.

Phải chăng đó cũng là tư tưởng của Lão-Tử khi ông nói: “Hãy làm việc mà đừng quá để ý đến công việc của bạn”. Nhà triết học lão thành Trung Hoa đã học được điều ấy sau Bao năm kinh nghiệm, còn Têrêxa, cô bé người Pháp, đã học được ở trường TÌNH YÊU. Phải, tình yêu, tình yêu quảng đại tận hiến vô giới hạn, đã giải thoát tâm hồn Chị và chấp cánh cho Chị bay cao. Chị Têrêxa nói với chị Céline:

“Chúng ta hãy thoát ly trái đất này, hãy bay lên núi TÌNH YÊU để bông hoa xinh đẹp là tâm hồn chúng ta trú ngụ trên ấy. Hãy thoát ly cả những an ủi của Chúa GIÊSU để có thể kết hiệp với chính Người mà thôi”.

Và Chị thánh Têrêxa đã hy sinh tất cả hữu thể Chị. Chị không còn gì để thoát ly nữa ngoài việc từ bỏ chính tư tưởng muốn thoát ly của Chị. Chị quả thật là chiếc bình chứa đựng Chúa Thánh Thần. Đó là tất cả. Chỉ có THÁNH THẦN THIÊN CHÚA mới có thể đào tạo vị hôn thê nhỏ của Người “leo lên tới cao độ trọn lành nhanh nhẹn và nhẹ nhàng như chú hươu con”.

Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU và Thánh Nhan không được nâng cao hơn các vị thánh khác, nhưng chị đã hiện đại hóa sự thánh thiện. Chị thuộc loại những nhà cách mạng biết canh tân trong khi giải phóng. Giáo Hội Công Giáo là một thân thể sống động, không ngừng phát triển qua bao thế kỷ. Nhưng vào thế kỷ 20, thế kỷ mà chúng ta có thể gọi được là một thế kỷ tâm lý tế nhị, cần có một vị thánh như Têrêxa, một trong những nhà tâm lý thâm thúy nhất, một trong những nhà phân tích cực kỳ tinh tế. Nhờ Chị, sự thánh thiện không còn là một cái gì cao siêu, mà như nước thấm vào tận cõi vô thức sâu thẳm. CHÚA THÁNH THẦN luôn tạo nên những vị thánh mới, để đáp ứng với nhu cầu của thời đại. Vào thế kỷ 16, thế kỷ phát sinh chủ nghĩa cá nhân, CHÚA THÁNH THẦN đã làm nên một Têrêxa Avila (1515-1582) mà linh mục Hernandez sau khi tiếp xúc với thánh nữ đã tuyên bố: “Người ta nói với tôi đó là một phụ nữ đặc biệt. Nhưng theo tôi, đó là một nam-tử mà tôi chưa hề thấy một người thứ hai như thế”.

Cũng không phải là vô lý mà CHÚA THÁNH THẦN đã làm nên trong thời đại chúng ta một “trẻ thơ lão luyện”. Thế kỷ chúng ta chính vì đã già, nên rất cần trở nên trẻ thơ. Chị thánh Têrêxa đã vạch cho chúng ta con đường đó. Với tính đa cảm, trực giác, vui tươi, sắc sảo, tế nhị, thanh khiết, Chị đã thực hiện trong đời sống thiêng liêng những điều mà các vĩ nhân đương thời đã làm trong lãnh vực hoạt động của họ.

(trích "The Science of Love - Khoa Tình Ái" của ông Gioan Trịnh Xuân Vũ, bản dịch Việt ngữ của Thạch Sơn, tái bản năm 1996: "YÊU", trang 36-39).

3. PHÚC CHO NGƯỜI CÓ TINH THẦN NGHÈO KHÓ.

Ma quỷ đã gieo rắc vào lòng con người “cơn sốt tiền của” để tạo nên hai hạng người: giàu và nghèo. Người giàu sống vì tiền, chỉ biết tiền, vơ vét thật nhiều tiền. Vàng bạc, tiền của là thần tượng của người có tinh thần giàu có! Trong khi đó, người nghèo sống vì thù hận. Họ oán ghét người giàu, kẻ có quá nhiều vàng bạc tiền của. Họ oán ghét và thầm rủa mọi tai ương khốn khổ cho người giàu! Cho dù họ không đích thân giết chết người giàu, nhưng lòng nguyền rủa của họ cũng mang trọng tội như tội sát nhân vậy!

Đối nghịch với hai hạng người trên đây là “người có tinh thần nghèo khó”. Người có tinh thần nghèo khó thì dù cho họ có tiền rừng bạc biển, giàu nứt khố đổ vách, họ vẫn không hề phạm một tội nào vì tiền của. Trái lại, họ khôn ngoan dùng chính tiền của để mưu ích cho chính mình và để giúp đỡ người khác. “Người giàu” có tinh thần nghèo khó giống như một giòng suối mát nơi sa mạc khô cằn hoang vắng. Giòng suối quảng đại cho đi nước uống giải khát cho tất cả những ai tìm đến với giòng suối. Cho dồi dào, cho không tính toán, cho cách vui vẻ ..

“Người có tinh thần nghèo khó” thì dù cho họ có nghèo xơ nghèo xác, nghèo rớt mồng tơi, họ vẫn hạnh phúc trong cảnh huống nghèo khó của mình. “Người nghèo” có tinh thần nghèo khó luôn sống vui vẻ, bởi vì, họ không bị cơn khát tiền của dày vò. Người có tinh thần nghèo khó thường được hưởng một giấc ngủ an bình, êm dịu.

Sự giàu có thường được hiểu theo nghĩa vật chất như: vàng bạc, nhà cửa, ruộng đất, đồ dùng, nghĩa là tất cả những gì đem đến tiện nghi sung túc cho cuộc sống con người. Thế nhưng, sự giàu có cũng nằm trong lãnh vực tinh thần và luân lý nữa, chẳng hạn như: các mối liên hệ họ hàng thân thích, các tình nghĩa bạn bè, các hiểu biết trí thức và những quyền bính cùng trách nhiệm công cộng, vv.

Đối với sự giàu có vật chất thì “người có tinh thần nghèo khó” không mảy may bận tâm tới vấn đề tiền của. Không thèm khát tiền của, không tham muốn tiền của, không oán ghen người có nhiều tiền của. “Người có tinh thần nghèo khó” luôn luôn an vui với số phận của mình, sống thanh thản ngày qua ngày và phó thác tương lai trong tay Chúa.

Đối với sự giàu có luân lý thì “người có tinh thần nghèo khó” không dính bén hoặc bám víu vào bất cứ tình yêu và mối liên hệ nào: cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, họ hàng, bạn hữu, trí thức, chức quyền, vv. Khi con người có lòng dính bén tức là con người phạm tội. Chính nhờ sự “thoát ly” khỏi những ràng buộc của cải luân lý mà con người được tự do hoàn toàn, được độc lập thật sự và được hưởng nếm hạnh phúc toàn vẹn.

Giới răn Thiên Chúa đòi buộc con người phải yêu thương cha mẹ, con cái, vợ chồng và “yêu thương người khác như chính mình vậy”. Đúng thế. Con người phải yêu thương trước tiên cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, rồi đến người khác: người ở gần cũng như kẻ ở xa. Thế nhưng, con người phải yêu thương trong mức độ được Chúa vạch ra: “như chính mình”. Điều này có nghĩa là, chúng ta phải “yêu mến Chúa trên hết mọi sự, yêu mến hết lòng hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn”.. THIÊN CHÚA phải là đối tượng trên hết và là đối tượng duy nhất của con người.

4. Thánh nữ Perpétua: Vượt thắng tình phụ-mẫu.

Thánh nữ Perpétua thuộc một dòng quý tộc ở Bắc Phi. Gia đình thánh nữ được hồng ân lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, chỉ trừ người cha. Năm 303, Perpétua bị bắt cùng với 4 tín hữu Công Giáo khác. Lúc đó Perpétua là người mẹ trẻ (22 tuổi) với đứa con dại còn bú. Chính thánh nữ đã tự tay viết lại những diễn tiến, những chiến đấu trong thời gian bị bắt bớ và bị giam cầm.

... Giữa lúc cơn bách hại các tín hữu Kitô nổi lên dữ dội, cha tôi thường dùng đủ mọi lý lẽ cũng như tình phụ tử để thuyết phục tôi từ bỏ ý định xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Tôi thưa với cha: - Ba có nhìn thấy bình cắm hoa đang để trên bàn, hoặc bức ảnh treo trên tường, hoặc bất cứ vật dụng nào khác trong căn phòng này không? - Có, Ba thấy. - Người ta có thể gọi chúng bằng những tên khác không? - Không - Con cũng vậy. Con không thể tự đặt cho mình một tên nào khác ngoài tên con là KITÔ HỮU.

Nghe tôi trả lời thế, Ba tôi không còn tự chủ được nữa. Người nhẩy chồm đến bên tôi, như muốn móc cặp mắt tôi. Tuy nhiên, người chỉ đấm đá tôi túi bụi rồi bỏ đi, thất bại trước những lý lẽ rành mạch của tôi. Những ngày sau đó Ba tôi lánh mặt, không thèm gặp và nói lời nào với tôi. Tuy nhiên thái độ này đem lại cho tôi sự thanh thản, nhẹ nhàng. Tôi được hoàn toàn bình an để chuẩn bị lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Và chỉ vài ngày sau, chúng tôi bị bắt và bị tống giam trong hầm tối.

Ngục tối đối với tôi thật vô cùng khủng khiếp. Tôi chưa bao giờ trải qua một kinh nghiệm như thế. Các tù nhân chúng tôi bị dồn thật chặt, không chỗ trống, không ánh sáng, không khí thở. Tiền bạc bị tước đoạt hết. Riêng tôi bị dằn vặt vì cuộc sống khốn khổ của đứa con nhỏ còn bú, tôi mang theo với mình. Sau một thời gian vô cùng khốn khổ, hai thầy phó tế có nhiệm vụ săn sóc chúng tôi, đút lót tiền bạc, nên người ta di chuyển chúng tôi đến một trại giam khác, ít khốn cực hơn.

Một thời gian sau, có tiếng đồn chúng tôi sẽ bị đem xử. Vừa nghe tin, Ba tôi tức tốc chạy đến nhà giam thăm tôi, lòng buồn sầu vô hạn. Ba tôi tìm cách thuyết phục tôi lần cuối. Người nói với tôi:

- Con ơi, hãy thương xót cha già. Hãy nhìn mái tóc bạc của cha. Hãy thương đến cha của con, nếu cha còn xứng đáng được con gọi là cha. Con ơi, vì đôi bàn tay này, đôi bàn tay đã từng chăm sóc cho con đạt đến nét đẹp vẹn toàn của tuổi đời con hôm nay, và vì tình thương đặc biệt cha dành cho con, cha thương con hơn các anh em con, xin con đừng làm cho cha nên trò cười cho thiên hạ. Xin con hãy nhìn các anh em con, hãy nhìn mẹ con và cô con, hãy nhìn đứa con nhỏ của con, nó sẽ không thể sống sót, nếu chẳng may con có mệnh hệ nào. Xin con hãy rút lại quyết định của con, hãy từ bỏ đạo Công Giáo, để tránh cho gia đình ta khỏi rơi vào cảnh danh dự quyền hành bị phá hủy tan tành. Không ai trong gia đình ta còn được ăn nói tự do, nếu chẳng may con bị xử tử!

Ba tôi vừa nói vừa khóc, vừa cầm hôn tay tôi, vừa sụp lạy dưới chân tôi. Trong nỗi niềm thương đau khôn tả, Ba tôi không còn gọi tôi bằng con nữa, nhưng gọi bằng bà. Tôi cảm thấy thương cha vô vàn, nhưng nhất là tôi thương cho số phận của cha, người duy nhất trong gia đình, không chia xẻ niềm hãnh diện được tuyên xưng đức tin Công Giáo của tôi. Tôi đành an ủi cha già yêu dấu:

- Xin Ba hãy ngước mắt nhìn đoạn đầu đài này. Không gì xảy ra trên đó mà không do thánh ý Chúa. Cha biết rõ là định mệnh đời sống chúng ta không tùy thuộc chúng ta, nhưng nằm trong tay Thiên Chúa.

Nghe tôi nói như vậy, Ba tôi giận dữ bỏ ra về..

Một ngày, chúng tôi bị đưa ra công đường để chịu thẩm vấn. Tiếng đồn lan nhanh đến độ đã có đông người chen chúc đến tham dự cuộc thẩm vấn. Khi đến lượt tôi bị gọi, tôi liền chạm trán với Ba tôi, đang có mặt cùng với đứa con trai nhỏ của tôi. Ba tôi kéo tay tôi và nói:
- Hãy thương đến con trai của con.

Thấy thế, vị quan tòa nói với tôi:

- Hãy thương đến mái tóc bạc của cha già và hãy thương đến tuổi đời non dại của con trai ngươi. Hãy đốt hương tế hoàng đế.

Tôi trả lời: “Không, tôi không tế hoàng đế, vì tôi là tín hữu Kitô”.

Cùng lúc đó cha tôi tiến lại gần tôi, để thuyết phục tôi, nhưng quan tòa ra lệnh đuổi Ba tôi ra và đập mạnh vào người. Tôi nghe như tiếng đập giáng xuống trên người tôi, và cảm thấy đau nhói nơi tim. Tôi thật cảm thương cho tuổi già kém may mắn của cha tôi..

Ngày 7-3-303, thánh nữ Perpétua bị đưa ra hý trường, làm mồi cho bò cái húc, cùng với thánh nữ Félicitas, một phụ nữ nô lệ.

Theo tục lệ, trước khi vào hý trường, các tử tội phải khoác lên mình tấm áo của các phụ nữ có nhiệm vụ tế thần. Nhưng các Kitô hữu một mực từ chối và nói: “Sở dĩ chúng tôi bị điệu đến đây là vì chúng tôi cương quyết bảo vệ sự tự do Kitô của chúng tôi, và vì chúng tôi từ chối tế thần. Mạng sống của chúng tôi đánh đổi hai quyết định trên đây của chúng tôi. Vậy xin tôn trọng quyết định của chúng tôi, vì đó cũng là điều mà quý vị đồng ý”. Nghe vậy, quan tòa đành phải chấp thuận.

Vào hý trường, Perpétua bị đối đầu với một con bò cái. Nó húc tung thánh nữ lên không. Thánh nữ bị rơi ngửa xuống đất. Vừa khi có thể ngồi dậy, thánh nữ liền lấy tay kéo chiếc áo che kín một phần thân thể bị lộ ra vì một mảnh áo bị rách đi. Tiếp đến, thánh nữ lấy kẹp, kẹp lại mái tóc bị xỏa tung. Cử chỉ kín đáo đoan trang và quý phái của thánh nữ, như muốn nói với đám đông đang chứng kiến cuộc tử đạo của thánh nữ rằng:

“Một phụ nữ Kitô tử đạo, không nên bước vào vinh quang Nước Trời với mái tóc xõa tung, vì đó là dấu hiệu của tang chế”.

Sửa soạn tề chỉnh xong, Perpétua bình tĩnh đứng lên. Nhìn thấy người nữ nô lệ Félicitas bị bò húc, đang nằm sóng soài dưới đất, Perpétua tiến lại, giơ tay cho nàng Félicitas nắm và kéo người nữ nô lệ đứng thẳng lên. Nhìn thấy hai phụ nữ Kitô oai dũng đứng lên, đám đông bỗng như cảm thấy hổ thẹn thất trận trước nét anh hùng của hai phụ nữ. Họ im lặng thán phục và những người có nhiệm vụ điều khiển cuộc hành quyết vội vàng đưa hai phụ nữ Kitô vào cửa dành cho những người còn sống.

Tại đây, thánh nữ Perpétua được một tín hữu tân tòng chạy đến chăm sóc. Chính lúc này, thánh nữ mới trở lại với thực tế. Như người vừa trở về sau một thời gian xuất thần, thánh nữ ngạc nhiên nhìn chung quanh và hỏi: “Bao giờ thì tôi mới bị đưa ra cho bò cái húc?”. Và khi được trả lời là xong rồi, thì thánh nữ không tin, cho đến khi nhìn thấy những vết thương trên mình và áo quần rách nát, lúc đó thánh nữ mới hiểu là mình đã bị bò cái húc. Thánh nữ liền nói với người em trai đang đứng đó với người tân tòng rằng: “Xin anh em hãy kiên vững trong đức tin và đừng sợ hãi gì khi nhìn thấy các tín hữu Kitô bị hành hung như thế”.

Nhưng rồi đám đông lại lên cơn điên, la ó đòi phải dẫn các phụ nữ Kitô ra hý trường. Lần này thì thánh nữ Perpétua thực sự nếm cái chết đau đớn thể xác. Tên đao phủ cầm gươm tiến đến gần thánh nữ, nhưng anh ta lúng túng vụng về chỉ đâm vào hông thánh nữ. Thánh nữ Perpétua thét lên một tiếng lớn, rồi nắm chặt lấy tay người đao phủ, hướng tay anh ta cầm gươm tiến đến họng mình, đâm thẳng vào đó. Đám đông ngạc nhiên theo dõi cử chỉ anh hùng cuối cùng của người phụ nữ Kitô.

Thánh nữ Perpétua oai dũng như người đang làm chủ tình thế, như người chiến thắng, tự mình dâng hiến cuộc đời vì lý tưởng Kitô cao cả! Thánh nữ đã chọn Thiên Chúa trên cha mẹ, con cái, dòng tộc, gia đình cùng mọi thứ sang giàu khác.. Phúc cho thánh nữ, vì thánh nữ đã hiểu lời Chúa dạy: “Phúc cho người có tinh thần nghèo khó Vì Nước Trời là của họ” (Mt. 5,3).

II. PHÚC CHO NGƯỜI HIỀN LÀNH

1. PHÚC CHO NGƯỜI HIỀN LÀNH.

Phải hiền dịu.
... “Ở đâu và thời nào, người ta cũng đều tự nhiên quí mến kẻ hiền dịu. Tại sao? Có lẽ có nhiều lý do khác nhau. Nhưng chắc chắn là tại người ta thấy trong kẻ hiền dịu một người bạn thân. Ruồi tự nhiên ưa đường mật. Con người cũng thế. Thấy trong ai có sự êm dịu, có sự thân thiết thì tìm đến, trao đổi tâm tình và cho sự sống chung với kẻ ấy là hạnh phúc. Nếu bạn dùng vũ khí hãm hại một người yếu thế hơn bạn, nếu bạn quát tháo, thịnh nộ, đe dọa một đứa con nít thì có thể hai thứ người ấy làm thinh, chịu thua bạn. Nhưng chúng tôi quyết trong thâm tâm họ không mến phục bạn gì hết. Chừng nào kẻ yếu có vũ khí như bạn, chừng nào đứa con nít lớn khôn, bạn sẽ thấy họ đối xử với bạn làm sao. Lão-Tử thật tỏ ra khôn hơn chúng ta khi ông nói: “Nhu thắng cang, nhược thắng cường”. Trong xã hội, ít có thứ người tự nhiên ưa thích hung dữ, sự xẳng xốn. Có nhiều kẻ ác phải có biện pháp mạnh đối phó mới chịu thua. Nhưng trong thâm tâm mọi người, kể cả kẻ ác này, đều có lòng mến thích cái gì êm dịu. Ai không biết làm thỏa mãn tánh tự nhiên này của kẻ khác, thời không trông gì dẫn dụ kẻ khác theo mình. Đã không dẫn dụ được còn gây thêm ác cảm nữa. Bất kỳ ai, dù kẻ học rộng, hay kẻ quê mùa dốt nát, một khi có lập trường nào thường khư khư giữ lấy, không muốn kẻ khác cho mình là lầm. Có người dám nóng cọc, hy sinh cả tình bạn, tình cốt nhục, quyền lợi, để bảo tồn tư tưởng của mình nữa. Gặp những kẻ ấy, bạn xẳng được không? Lửa đang cháy, muốn trừ nó, bạn đem thêm lửa lại à? Dĩ nhiên bạn phải dùng nước, nghĩa là ăn nói mềm mỏng, tâm phục họ hơn là lý phục .. Sự ngọt ngào giống như nước làm cho lửa giận kẻ khác không bừng lên được, khiến đầu óc họ hết chống đối với ta và nói ý chí của ta mật thiết với của họ. Lẽ dĩ nhiên, đây là sự êm dịu của người quân tử .. Bạn êm dịu vì bạn điềm đạm, nhẫn nhịn sự hung bạo kẻ khác dễ dàng và biết đối xử với kẻ thô lỗ bằng thái độ lịch sự. Bạn êm dịu, nhưng bạn thấy trước phải dẫn dắt đối phương đến chân lý mà bạn đã nhắm. Bạn sáng suốt lái họ mà họ không hay. Cho được nên người êm dịu, trong tâm tưởng bạn nên có tinh thần bác ái, trọng nhân phẩm, muốn lấy thái độ quân tử đối lại với hành động tiểu nhân, cương quyết dùng nước thắng lửa .. Các giáo sĩ Công Giáo mỗi sáng hay có thói quen đọc nửa giờ Kinh Thánh. Chúng tôi xin bạn mỗi sáng để năm phút thôi, đọc câu Kinh Thánh này của Chúa GIÊSU: “Các con hãy học cùng Thầy vì Thầy hiền lành và khiêm nhượng thật trong lòng”. (“Rèn nhân cách”, Hoàng Xuân Việt, loại sách “Học làm người”, trang 308-311).

Trong cuốn GƯƠNG CHÚA GIÊSU (quen gọi là SÁCH GƯƠNG PHÚC), do nhà sách ĐA-MINH Sàigòn tái bản năm 1965, nơi chương 16 có tựa đề: “Một nhịn chín lành”:

Nhịn là tinh khôn.
Cái gì trong bạn, hay trong người khác, mà bạn không sửa được, bạn hãy nhẫn nhục chịu đựng, cho đến khi Chúa ấn định cách khác. Bạn nên nghĩ, biết đâu để thế, lại có lợi hơn cho bạn, vì nó giúp bạn luyện tập thêm đức nhẫn nhục, là một đức tối cần để bạn lập nên công lớn. Nhưng bạn hãy cầu xin Chúa giúp bạn, trong những éo le ấy, để chịu cho vui lòng. Nếu bạn đã bảo ai nhiều lần mà người ấy không chịu nghe, bạn đừng cãi lẫy với họ, hãy để mặc Chúa, là Đấng có thể biến điều ác nên điều thiện, để thần ý Ngài nên trọn và, để Ngài được sáng danh, trong các tôi trung của Ngài.

Nhịn là công bằng.
Bạn hãy cố nhẫn nhục chịu đựng những khuyết điểm và sơ suất, bất luận lớn nhỏ của người khác, vì chính bạn, cũng đầy khuyết điểm, mà người khác đang chịu đựng đấy! Chính bạn, bạn cũng không thể trở nên như mình muốn, thế sao bạn lại có thể bắt người khác phải trở nên như bạn muốn? Ta thích cho người khác nên trọn hảo; còn lỗi ta, ta vẫn không chịu sửa! Ta muốn sửa trị người khác cho nhặt; còn ta, một lời sửa bảo xoàng đã chau mặt! Ta khó chịu khi người khác được ơn rộng, còn ta, ta vẫn không muốn ai chối ta cái gì. Ta muốn ràng buộc người khác, bằng những kỷ luật nghiêm khắc, còn ta, hơi bó buộc thêm một chút, là ta đã không chịu nổi! Những cái đó đủ để chứng tỏ: rất ít khi ta xử với người khác như xử với mình!

Nhịn là sáng suốt.
Nếu ai cũng tinh toàn cả, làm gì còn khổ giá để ta vác cho Chúa. Nhưng giờ đây Chúa an bài thế, để ta tập tương trợ lẫn nhau, vì ai cũng có khuyết điểm, cũng như phải nhịn khuyết điểm của người khác. Chẳng ai tự túc tự mãn, chẳng ai sáng suốt đủ mà không phải nhờ người khác hướng dẫn. Trái lại, ta phải chịu đựng lẫn nhau, yên ủi lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau, dạy vẽ và chỉ bảo lẫn nhau. Không gì chứng tỏ trình độ nhân đức của ta bằng phản trắc. Vì những dịp đó không làm cho ta yếu thêm, trái lại, nó chỉ chứng tỏ cái chân thực của con người.

2. Thánh nữ BERNADETTE: mẫu gương trong sạch, hiền lành và khiêm tốn.

Thánh nữ Bernadette Soubirous (1844-1879) được diễm phúc trông thấy Đức Mẹ hiện ra 18 lần trong vòng 5 tháng, tại Lộ Đức, miền Nam nước Pháp, từ 11-2 đến 16-7-1858.

Trước những hiện tượng lạ, người tin thì ít, nhưng những kẻ không tin thì rất nhiều. Có người nghi ngờ nói thẳng với Bernadette: “Chúng tôi không hề tin vào những cuộc hiện ra này”. Bernadette điềm nhiên trả lời: “Cháu không có nhiệm vụ làm cho quý ông bà tin. Cháu chỉ có nhiệm vụ nói cho quý ông bà biết”.

Câu trả lời biểu lộ đức tính ngay thẳng, hồn nhiên, khiêm tốn nơi một thiếu nữ đồng quê 14 tuổi. Những đức tính cao quý này đã theo sát cuộc đời thánh nữ, cho đến khi Chị nhắm mắt từ trần ngày 16.4.1879, hưởng dương 35 tuổi, trong tu phục các nữ tu Bác Ái thành Nevers, miền Trung nước Pháp.

Một thời gian ngắn sau khi chị Marie-Bernard - tên dòng của chị Bernadette - qua đời, người ta cho mở hồ sơ xin phong thánh cho chị. Một nữ tu cùng dòng, đã đặt tay làm chứng: “Chị Marie-Bernard là mẫu gương nhân đức cho hết mọi chị em trong dòng”.

Lời chứng gồm tóm mọi nhân đức của chị Bernadette: thanh sạch, khiêm nhường, nhân từ, hiền dịu, nhẫn nhục, ngay thẳng và tuân phục Bề Trên..

Trong các đức tính vừa kể, nổi bật sự thanh sạch. Hẳn là Đức MARIA, Trinh Nữ tuyệt vời trên mọi trinh nữ, đã có lý khi chọn Bernadette làm sứ giả loan báo hồng ân “Vô Nhiễm Nguyên Tội” của Mẹ. Mẹ Bề Trên Forestier của các nữ tu Bác Ái Nevers nói: “Chị Marie-Bernard là một thiên thần.. Chị trong trắng như đóa huệ. Trước khi nhận chị vào dòng, tôi nghe người ta đồn thổi: Mẹ MARIA đã Ban cho Bernadette hồng ân giữ được nét đơn sơ trong sạch của một trẻ thơ.. Sau này, khi nhận chị vào dòng, và có dịp quan sát thật gần, tôi phải công nhận: lời đồn thổi quả đúng sự thật”.

Đức cha Bertrand-Sévère Laurence, Giám Mục Lộ Đức lúc bấy giờ, khi cho gọi Bernadette đến để tra hỏi thực hư về câu chuyện “một Bà Đẹp đã xuất hiện nơi hang Massabielle”, đã tin ngay lời tường thuật của Bernadette. Sau này, đức cha thú nhận: “Chính nét đơn sơ, sự trong trắng và lòng khiêm tốn của cô bé, khiến tôi phải tin là Bernadette đã nói thật”.

21 năm sau biến cố “Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức”, trước linh cữu của chị Bernadette, một vị giám mục khác, đức cha Lelong, giám mục Nevers, lại lên tiếng ca tụng về nét đẹp trong trắng thiên thần của chị Bernadette: “Toàn thể con người chị chiếu tỏa nét trong sạch, lóng lánh như viên kim cương vẹn tuyền. Nét trong sạch đặc biệt phản chiếu trong cái nhìn sâu thẳm và trong suốt của chị”.

Chị Marthe du Rais, nữ tu cùng dòng làm chứng về chị Bernadette: “Chị thường giữ đôi mắt nhìn xuống. Và khi nào chị ngước lên, thì đôi mắt trông thật trong suốt và tinh sạch. Tôi có cảm tưởng là ánh mắt chị vẫn còn vương tỏa các cuộc Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức”.

Một nữ tu khác, chị Eugénie kể: “Ngày tôi vào thỉnh viện thì chị Bernadette đang làm tập sinh năm thứ nhất. Tôi chưa một lần gặp mặt cũng không hề trông thấy hình của chị Bernadette. Do đó tôi tự nhủ: Nhất định không hỏi ai hết, thử xem mình có nhận ra được chị Bernadette ở giữa các tập sinh khác không. Thế rồi tôi để ý quan sát tất cả các tập sinh. Khi ánh mắt tôi chạm ánh mắt của chị Bernadette, tôi nghĩ ngay: “Chắc chắn đây là đôi mắt đã được diễm phúc trông thấy Trinh Nữ MARIA”.

Tất cả các nữ tu sống gần chị Bernadette đều đồng thanh làm chứng: “Cái nhìn, dáng điệu, lời ăn tiếng nói, ngay cả những lúc chị tinh nghịch đùa chơi, nhất nhất biểu lộ một con tim trong trắng. Sự có mặt của chị như có sức mạnh ngăn cản chúng tôi nói những lời đùa cợt vô ích”.

Sau cùng là lời chứng của một thần học gia tên tuổi, linh mục Jean-Claude Raffin. Cha nói: “Điều nổi bật nhất nơi chị chính là toàn thể nét hồn nhiên, sự thơ ngây, lòng khiêm tốn và tính dè dặt, biểu lộ trong cái nhìn, trong cử chỉ và trong dáng đi của chị. Mọi người đều nhận thấy và đồng ý rằng, chị Bernadette đã giữ được nét ngây thơ trong trắng của Bí Tích Rửa Tội và đã không phạm một tội nào nghịch với đức khiết tịnh. Chị Bernadette đã bảo tồn nguyên vẹn nét đẹp, vẽ tươi mát và hương thơm dịu dàng của cành huệ trinh khiết..”.

Sau nét đẹp thanh khiết, nổi bật nhân đức khiêm nhường của chị thánh Bernadette.

Ngày 30-10-1867, chị Bernadette được tuyên khấn lần đầu trong dòng các Nữ Tu Bác Ái thành Nevers. Năm ấy chị tròn 23 tuổi.

Theo tục lệ trong dòng, vào buổi chiều ngày tuyên khấn, các nữ tu khấn tạm tập họp lại để nhận bài sai, từ Mẹ Bề Trên và Đức Giám Mục Bản quyền. Chiều hôm ấy, chị Bernadette cũng có mặt cùng với 44 khấn sinh khác. Đến lượt mình, chị đến quỳ trước mặt Đức Cha Forcade và đợi nhận bài sai.

Đức Giám mục quay sang hỏi Mẹ Bề Trên: “Bà chỉ định cho chị này làm công việc gì?”. Thoáng điểm nụ cười trên môi, Mẹ Bề Trên Joséphine Imbert trả lời: “Thưa Đức cha, con trẻ này không biết làm một cái gì hết. Chị đi đến đâu, sẽ trở thành gánh nặng cho nơi đó!”. Mọi người im lặng như tờ. Đức cha chăm chú nhìn chị nữ tu trẻ tuổi, đang khiêm tốn quỳ dưới chân ngài. Rồi như được ơn trên linh ứng, Đức giám mục ứng khẩu Ban bài sai: “Cha chỉ định cho con nhiệm vụ cầu nguyện”.

Nói xong, đức cha bỗng sực nhớ là chị Bernadette đang ở trong một dòng hoạt động chứ không phải dòng chiêm niệm. Đức cha liền hỏi lại: “Quả thật con không biết làm một cái gì hết sao?”. Chị Bernadette khiêm tốn thưa: “Thưa đức cha, Mẹ Bề Trên thật không sai lầm. Quả đúng như vậy”. Đức Giám Mục tiếp lời: “Vậy thì, thật tội nghiệp cho con. Phải làm gì với con bây giờ? Mà tại sao con lại vào dòng?”. Chị Bernadette đơn sơ trả lời: “Hồi còn ở Lộ Đức, con đã trình bày điều đó với đức cha và đức cha bảo không sao hết!”. Vị giám mục hơi lúng túng, không biết giải quyết ra sao. Sau cùng, đức cha hỏi: “Nhưng ít ra là con cũng biết gọt khoai, lặt rau chứ?”. Chị Bernadette thưa: “Con sẽ cố gắng”.. Quay sang Mẹ Bề Trên, đức cha nói: “Chúng ta sẽ giữ chị này ở lại đây ít lâu. Sau đó, nếu thấy là chị hữu dụng trong một số việc nhỏ nhặt nào đó, thì sẽ gửi chị đi giúp xứ”.

Hẳn là chị Bernadette phải thật khiêm tốn để chấp nhận những lời nhận xét của Mẹ Bề Trên và của Đức Giám Mục! Nhưng đó là chuyện không thành vấn đề đối với chị. Người ta đọc thấy trong sổ tay tĩnh tâm của chị hàng chữ sau đây: “Ơn chính phải xin: sống thật ẩn kín, theo gương Chúa GIÊSU và Mẹ MARIA”.

Chị Bernadette đã xin và đã sống ơn ẩn kín này. Trong thánh lễ an táng, trước linh cữu chị, đức cha Lelong lớn tiếng tung hô nhân đức khiêm nhường của chị như sau: “Hỡi các nữ tu, các chị là những người biết rõ rằng, không phải người ta tìm cách dấu kín chị, nhưng chính chị tự ẩn mình đi, và chị càng ẩn mình được Bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu.. Chị không thích gợi lại quá khứ, nhưng tìm cách quên đi, hay ít là, làm cho người khác quên đi”..

Một nữ tu cùng dòng, 40 năm sau, đã nói về nhân đức khiêm nhường của chị Bernadette: “Người ta dạy tôi: khiêm nhường là quên mình đi. Nơi chị Bernadette, khiêm nhường quả là như thế đó. Chị không Bao giờ nói về mình, lo lắng chăm sóc cho mình. Khiêm nhường là một nhân đức thật cao cả nơi chị. Tôi nghĩ, chính Mẹ MARIA đã thông truyền nhân đức này cho chị khi Đức Mẹ hiện ra với chị”.

Một ngày, một nữ tu hỏi chị Bernadette xem chị có cảm thấy bị hạ thấp trong cuộc sống ẩn kín nơi tu viện, sau khi được mọi người biết đến vì những cuộc hiện ra của Đức Mẹ tại Lộ Đức không, chị trả lời: “Sao thế, chị nghĩ gì về em? Chị không biết là em hiểu rõ rằng, nếu Đức Mẹ chọn em, chính vì em là người dốt nát nhất. Nếu Đức Mẹ tìm được một người nào khác dốt nát hơn, hẳn là Đức Mẹ sẽ chọn người ấy”.

Một ngày, hai thiếu nữ từ Lộ Đức đến nhập dòng. Hai cô đưa cho chị Bernadette xem tấm hình chụp hang đá Lộ Đức, với ước mơ thầm kín là sẽ được nghe chị nói về các cuộc hiện ra. Chăm chú nhìn tấm hình chụp hang đá Lộ Đức thân yêu, chị chỉ buông câu nói bâng quơ: “Chà, mấy cây bạch dương bữa nay cao ghê!”.. Một lần khác, một nữ tu cũng đưa cho chị xem tấm hình chụp hang đá Lộ Đức, với dụng ý dò xem phản ứng của chị. Đang chăm chú nhìn tấm hình, chị Bernadette bỗng ngước mắt hỏi chị kia:

- Chổi dùng để làm gì?
- Để quét nhà
- Rồi sau đó?
- Sau đó thì người ta dựng vào xó cửa!
Chị Bernadette điềm nhiên nói: “Đó cũng là câu chuyện cuộc đời em. Đức Mẹ đã dùng em. Giờ đây xong công việc, người ta đặt em lại chỗ cũ của em. Em thật sung sướng và cứ ở nguyên trong tình trạng ẩn kín này”.

3. Anh em hãy học với Thầy vì Thầy có lòng hiền hậu và khiêm tốn.

Đó là câu nói thời danh của Chúa GIÊSU thành Nagiarét, Ông Tổ Tối Cao của KITÔ Giáo. Chỉ duy mình Chúa GIÊSU KITÔ, Vị Tôn Sư Độc Nhất, mới có thể nhẹ nhàng phán bảo như thế. “Anh em hãy học với Thầy vì Thầy có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 12,29). Trọn cuộc đời dương thế vắn vỏi 33 năm, Chúa GIÊSU đã nêu cao mẫu gương hiền hậu. Chúa GIÊSU hiền lành và khiêm tốn. Từng cử chỉ, từng lời nói, từng hành động của Chúa GIÊSU, nhất nhất đều biểu lộ một Con Người hiền lành và khiêm tốn. Khiêm tốn tột mức, hiền dịu đến độ anh hùng! Ở dưới vòm trời này, - từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế - không thể tìm ra một người nào, hiền lành và khiêm tốn hơn hoặc bằng Chúa GIÊSU! Không. Trăm triệu lần không. Chỉ duy mình Chúa GIÊSU mới là người hiền lành và khiêm tốn đích thực. Xin trưng dẫn một trường hợp điển hình.

.. Bấy giờ Giuđa dẫn một toán quân cùng đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pharisêu đến bắt Chúa GIÊSU. Họ mang theo đèn đuốc và khí giới. Đức GIÊSU biết mọi việc sắp xảy đến cho mình, nên tiến ra và hỏi: “Các anh tìm ai?”. Họ đáp: “Tìm ông GIÊSU NAGIARÉT”. Người nói: “Chính Tôi đây!”. Khi Người vừa nói: “Chính Tôi đây!” thì họ lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi một lần nữa: “Các anh tìm ai?”. Họ đáp: “Tìm ông GIÊSU NAGIARÉT”. Đức GIÊSU nói: “Tôi đã bảo các anh là chính Tôi đây!”..

.. Toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ của người Do thái liền bắt và trói Người lại. Trước tiên, họ điệu Chúa GIÊSU đến ông Khan-na.. Vị thượng tế tra hỏi Chúa GIÊSU về các môn đệ và giáo huấn của Người. Đức GIÊSU trả lời: “Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ. Tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại đền thờ, nơi mọi người Do thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. Sao ông lại hỏi Tôi? Điều Tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe Tôi. Chính họ biết Tôi đã nói gì”. Chúa GIÊSU vừa dứt lời, thì một tên trong nhóm thuộc hạ đứng đó vả vào mặt Người và nói: “Anh trả lời vị thượng tế như thế ư?” Chúa GIÊSU đáp:

- Nếu Tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu Tôi nói đúng, sao anh lại đánh Tôi? (Gioan 18, 2-21).

Câu trả lời biểu lộ thái độ bình tĩnh và trang nghiêm tột cùng của Đức GIÊSU KITÔ. Trong một hoàn cảnh đau thương và ô nhục như thế, Chúa GIÊSU vẫn giữ nguyên tư cách của một vị Tôn Sư Tối Cao, của một Đấng Cứu nhân độ thế. Như vậy, Ngài mới có đủ uy tín nhắn nhủ các môn đệ của Ngài: “Anh em hãy học với Thầy vì Thầy có lòng hiền lành và khiêm tốn”. Từ đó, các tín hữu KITÔ thường khẩn khoản van nài: Lạy Chúa GIÊSU hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, xin uốn lòng chúng con nên giống như Rất Thánh Trái Tim Chúa.

Chúa GIÊSU không cần phô trương mình là Con Thiên Chúa. Ngài cũng chẳng cần biểu dương sức mạnh cùng quyền năng của mình. Bằng chứng hùng hồn nhất chứng tỏ Chúa GIÊSU là Con Thiên Chúa, hẳn là ở chỗ: Chúa GIÊSU không Bao giờ tìm cách khoe khoang mình là Con Thiên Chúa!

Trong khi đó, cái dại dột nhất, cái sa chước cám dỗ nặng nề nhất của con người - bắt đầu từ hai nguyên tổ Adong và Evà - chính là: “muốn bằng Thiên Chúa, muốn trở nên như các thần linh” (Sáng Thế 3,5).

Con người thèm muốn nâng cao để được giống như Thiên Chúa. Chúa GIÊSU trái lại, chỉ ước ao hạ mình xuống, để yêu thương và phục vụ con người. Thánh Phaolô Tông đồ viết cho tín hữu Philipphê: Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Chúa GIÊSU KITÔ. Chúa GIÊSU KITÔ vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với THIÊN CHÚA, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng Ban danh hiệu, trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh GIÊSU, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh THIÊN CHÚA CHA, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “ĐỨC GIÊSU KITÔ LÀ CHÚA” (2, 5-11).

4. Hiền lành là hoa quả của yêu thương và khiêm tốn.

Hiền lành đối nghịch với thù hận và kiêu căng. Nếu thù hận gieo tang tóc và kiêu căng hủy hoại tinh thần con người thì tình yêu và khiêm tốn là hai phương thuốc thần diệu mang lại sự sống đích thực cho con người.

Từ năm 1964, nơi Vương quốc Bỉ, qua trung gian của một nữ giáo dân mang biệt hiệu Margarita, Chúa GIÊSU trao Ban sứ điệp tình yêu cho nhân loại và thành lập một Đạo Binh các Hồn Nhỏ. Chính Chúa GIÊSU giải thích:

Cha gởi đến các con “Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu” của Cha. Thông điệp này truyền bá ra sẽ làm cho linh hồn những người khao khát Tình Yêu Thiên Chúa được tràn ngập ơn phúc và được soi sáng, đồng thời làm cho những người khác cũng phải suy nghĩ lại, và thúc giục họ hồi tâm tỉnh ngộ. Những lời bình phẩm sẽ chẳng che lấp được tiếng Cha. Như nước thủy triều dâng, tiếng Cha sẽ tràn lên, thức tỉnh các tâm hồn, tiêu diệt sự lầm lạc và đồi trụy. Khoái lạc cuồng loạn và các tệ đoan của nó, kiêu ngạo và tiên tri giả: đó là những điều Cha đến để tiêu diệt bằng TÌNH YÊU, để cho tất cả các con được sống (6-5-1967).

Cha kêu gọi các hồn nhỏ sống khiêm tốn để chống lại tính kiêu căng. Yêu thương để phủ lấp thù hận. Quảng đại để xóa bỏ ích kỷ. Trong sạch để chống lại sự nhơ nhớp .. Hỡi các hồn nhỏ, hãy liên kết để cứu thế giới. Triều thần của cha là các người bé nhỏ, rất có thế lực đối với Trái Tim Cha..

Đây là một ngày sống của hồn nhỏ: Dâng ngày cầu cho Đức Giáo Hoàng, theo các ý chỉ của ngài; cầu cho Hội Thánh, cho toàn thể các linh mục; cho hòa bình thế giới, cho tội nhân hối cải, cho người đau khổ, và để đền tạ những điều nhục mạ xúc phạm nặng nề đến Trái Tim Cực Thánh Cha và Trái Tim Tân Khổ và Vô Nhiễm Nguyên Tội ĐỨC MẸ. Cha mời gọi mỗi linh hồn lấy lòng quảng đại và tận tụy cố gắng chống lại tính ích kỷ nằm trong tất cả mọi người và nơi mỗi người. Cha kêu gọi mỗi linh hồn phải có lòng bác ái lớn lao đối với tha nhân. Truyền bá việc lần chuỗi Mân Côi: điều này sẽ đem lại rất nhiều ơn phúc cho Hội Thánh và cho các linh mục. Việc cầu nguyện thì để mỗi linh hồn chọn lựa theo phương thức thuận hợp cho mình. Đừng sao lãng việc ấy khi không có lý do can hệ, vì đó là phương thế thánh hóa và hiểu biết, do mãnh lực nó đem đến phấn khích linh hồn các con. Các linh hồn nhỏ hãy kết hiệp vào những ý chỉ trên đây, với lòng yêu mến và nhiệt thành. Các con hãy năng nhớ đến Thiên Chúa các con bằng những khát vọng nồng nàn hầu duy trì sự tiếp xúc thường xuyên giữa Thiên Chúa và các con. Các con hãy phó thác trọn vẹn theo ý Cha. Hãy trông cậy nơi Cha. Điều này chính là qui luật mà mỗi hồn nhỏ phải tôn trọng và thi hành; mỗi hồn nhỏ cũng phải nhận lấy cái ách của mình; các con hãy tin chắc, ách ấy sẽ êm dịu đối với những tâm hồn quảng đại. Nếu các con làm như thế, điều ác sẽ bị ngăn chặn, không lan tràn. Nhiều người sẽ hồi tỉnh và trở về với Nguồn Thiện Hảo. Cha đã nói và Cha lập lại: Những hồn nhỏ của Cha có thể cứu thế giới. Các con hãy thành lập những đảo nhỏ thánh thiện ở khắp nơi. Một số ít linh hồn thánh thiện trong một giáo xứ có thể cứu giáo xứ đó. Nhiều giáo xứ có một số linh hồn thánh thiện, có thể cứu một quốc gia. Phải sống và chiếu giãi tình thương. Nhưng không có điều gì thực hiện được nếu không có những hy sinh. (5-12-1967)

5. Trinh Nữ MARIA: mẫu gương hiền lành, khiêm tốn và trầm lặng.

Sau Chúa GIÊSU KITÔ, mẫu gương tuyệt hảo nhất của lòng khiêm tốn và sự trầm lặng, chính là Trinh Nữ MARIA. Thánh sử Luca viết: ”Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (2,51b). Tâm hồn trinh khiết và khiêm hạ của Đức MARIA hẳn chỉ yêu thích và tìm kiếm nơi vắng vẻ cô tịch.

Đức MARIA được các tín hữu Công Giáo kêu cầu dưới danh hiệu “Trinh Nữ Thầm Lặng”, như bài kinh dưới đây:

Mẹ là thầm lặng: thầm lặng của người canh thức, thầm lặng của kẻ đợi chờ, thầm lặng của người khám phá ra sự hiện diện. Mẹ là thầm lặng: thầm lặng của kẻ lắng nghe, thầm lặng của người tiếp đón, thầm lặng của kẻ sống hiệp thông. Mẹ là thầm lặng: thầm lặng của người yêu thương, thầm lặng của kẻ phục vụ, thầm lặng của người đứng bên Thánh Giá. Mẹ là thầm lặng: thầm lặng của người khóc lóc, thầm lặng của kẻ đau khổ, thầm lặng của người mang thánh giá. Mẹ là thầm lặng: thầm lặng của người nghèo nàn, thầm lặng của kẻ đơn sơ, thầm lặng của người chân thật trong trái tim. Mẹ là thầm lặng: thầm lặng của người cầu nguyện, thầm lặng của kẻ sống an bình, thầm lặng của người bước đi trước mặt Chúa. Mẹ là thầm lặng: thầm lặng của GIÁO HỘI, thầm lặng của HIỀN THÊ và của HÔN PHU, thầm lặng của sự HIỆP THÔNG VĨ ĐẠI, CAO CẢ..

Lạy Mẹ là Trinh Nữ Thầm Lặng, xin Mẹ cầu bầu cho chúng con biết luôn luôn yêu chuộng sự Thầm Lặng, lòng khiêm tốn và sự hiền lành, như lời Chúa GIÊSU phán: “Phúc cho người hiền dịu vì họ sẽ được đất hứa làm gia nghiệp” (Mt 5,4).

III. PHÚC CHO NGƯỜI ĐÓI KHÁT ĐIỀU CÔNG CHÍNH.

1. PHÚC CHO NGƯỜI ĐÓI KHÁT ĐIỀU CÔNG CHÍNH.

Giữa lòng thủ đô Roma có đại thao trường COLOSSEO. (Hay cũng còn gọi là đấu trường, hý trường). Đây là thao trường lớn nhất trong đế quốc La-Mã thời xưa. Hầu như trong các thành phố lớn của đế quốc La-Mã đều có một thao trường hình bầu dục, có tường cao phía ngoài, thấp dần ở phía trong; trong phần thấp dần này có các bậc hoặc các dãy ghế dành cho khán giả ngồi xem biểu diễn. Ở giữa, có sân trống dành cho các cuộc thao diễn, các trận đấu. Thao trường ở Roma được gọi là Colosseo vì xưa kia có bức tượng đá tạc hình Neron hoàng đế cao 30 mét. Bức tượng vĩ đại này nằm bên cạnh thao trường. Vì thế, thao trường được gọi là Colosseo, có nghĩa là khổng lồ. Có giả thiết khác cho rằng: vì thao trường tại Roma lớn nhất trong các thao trường của đế quốc La-Mã, nên được gọi là Colosseo

Trong thời các hoàng đế La-Mã bách hại Kitô-Giáo, các thao trường trở thành nơi hành quyết các tín hữu Kitô. Vì thế mà đại thao trường Colosseo ở Roma được tín hữu Công Giáo và các vị giáo hoàng chọn làm nơi tưởng niệm, kính nhớ các vị tử đạo. Từ năm 1400, thao trường Colosseo được chọn làm nơi diễn lại cuộc Thương Khó của CHÚA GIÊSU, làm nơi tổ chức các cuộc rước kiệu Thánh Giá. Từ năm 1750, bắt đầu tập tục đi đàng Thánh Giá tại thao trường Colosseo. Nhưng từ năm 1925, mới thực sự có thói quen đi đàng Thánh Giá tại thao trường Colosseo vào mỗi ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Từ năm 1964, Đức Thánh Cha Phaolo 6 đã tham dự cuộc đi đàng Thánh Giá tại thao trường Colosseo. Và suốt 14 năm làm giáo hoàng, ngài luôn trung thành với thói quen đạo đức này. Đức Phaolo 6 chỉ mang Thánh Giá ở những chặng cuối. Còn Đức Thánh Cha Gioan Phaolo 2 thì mang Thánh Giá từ đầu đến cuối. Nhưng kể từ khi sức khoẻ suy giảm, Đức Gioan Phaolo 2 cũng chỉ mang Thánh Giá ở các chặng đầu và cuối.

Thật là một cảnh tượng tuyệt đẹp, thật hùng vĩ: đại thao trường Colosseo đứng sừng sửng dưới ánh đèn điện sáng trưng. Đại thao trường chứa được 50-60 ngàn người, cao 50-60 mét, rộng hàng trăm mét, tọa lạc giữa lòng thủ đô Roma, như trở thành “dịu hiền khiêm tốn” trước sức mạnh chinh phục vô hình của Đức Tin.. Vẻ kiêu hùng của đế quốc La-Mã đã trở thành niềm hãnh diện của lòng tin KITÔ.

Cuộc đi đàng Thánh Giá đã được hệ thống truyền hình quốc tế trực tiếp phát đi qua hệ thống viễn tinh đến toàn Âu Châu, Mỹ Châu, Á Châu, Phi Châu và Úc Châu.

Bản văn ngắm đàng Thánh Giá thay đổi mỗi năm. Từ sau năm 1990, Đức Thánh Cha Gioan Phaolo 2 đã mời các nhân vật khác nhau của Giáo Hội Công Giáo hoặc của các Giáo Hội KITÔ khác, viết bài suy niệm cho buổi đi đàng Thánh Giá tại hí trường Colosseo. Chẳng hạn năm 1993, Mẹ Anna-Maria Canopi, Viện Mẫu đan viện Biển Đức ”Mater Ecclesiae” ở Isola San Giulio, thuộc miền Novara, nước Ý, đã viết bài suy niệm. Năm 1997, bài suy niệm là của Đức Karekin I, Thượng Phụ Giáo Chủ Giáo Hội Tông Truyền Arméni. Năm 1998, ông Olivier Clément, tín hữu Chính Thống người Pháp, được mời viết bài suy niệm. (Đại Năm Thánh 2000, Đức Thánh Cha Gioan Phaolo 2 lại tự tay viết bài Suy Niệm cho buổi Đi Đàng Thánh Giá vào tối Thứ Sáu Tuần Thánh 21-4-2000).

Năm 1996, Đức Hồng Y Vinko Puljic, Tổng Giám Mục Sarajevo, thuộc Cộng Hòa Bosni-Erzegovin, đã viết bài Suy Niệm cho 14 Chặng Đàng Thánh Giá. Lúc bấy giờ, Bosni-Erzegovin đang sống trong khói lửa chiến tranh, trong cảnh huynh đệ tương tàn. Bao tang tóc, Bao bất công, Bao kỳ thị mà các chủng tộc thuộc các tôn giáo khác nhau phải chịu. Trong bối cảnh đó, bài suy niệm của Đức Hồng Y Vinko Puljic phản ánh Bao đau thương, như tiếng kêu than của Abel vọng lên Trời Cao và thức tỉnh lương tâm con người. Xin trích dẫn bài suy niệm một số Chặng Đàng Thánh Giá do Đức Hồng Y Vinko Puljic viết, liên quan đến “điều công chính”.

Trước hết, Đức Thánh Cha Gioan Phaolo 2 đọc lời nguyện mở đầu cho buổi Đi Đàng Thánh Giá:

Anh chị em thân mến. Nhân ngày Thứ Sáu Tuần Thánh hôm nay, chúng ta quy tụ nơi đây để đi lại và suy niệm Chặng Đàng Thánh Giá của Chúa GIÊSU KITÔ, là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ chúng ta. Chúng ta đang ở Colosseo, hí trường nổi tiếng của đế quốc La-Mã, nơi tưởng niệm sống động của Giáo Hội các vị tử đạo, anh dũng trong đức tin, đã chiến thắng hận thù bằng tình yêu và sự dữ bằng điều thiện.

Chúng ta ghi nhận rằng, mỗi ngày, con người bị thương tổn sâu xa vì tội lỗi: khuôn mặt con người bị biến dạng, mối liên hệ với người khác bị lệch lạc, con đường hiệp thông và gặp gỡ bị phá vỡ.

Khi Chúa GIÊSU vác Thánh Giá trên vai là “Ngài mang chính tội lỗi của chúng ta” (Is 53,4). “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta” (2Co 5,21), hầu con người có thể đứng lên sau khi sa ngã và tìm lại phẩm giá đã có trước kia, lúc được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa.

Khi bước theo vết chân của Đấng Cứu Độ chúng ta, từ vườn Giệtsêmani đến đỉnh đồi Golgota, là chúng ta bước đi trên con đường mở rộng trước mắt nhân loại: viễn tượng Phục Sinh và vinh quang của con cái Chúa. Vì thế, chúng ta hãy khiêm tốn đặt mình vào trường học của Thánh Giá, nơi mà từ đó, Chúa GIÊSU đã tuôn đổ trên thế giới tình yêu và tha thứ, an bình và hòa giải, sự sống và ơn cứu độ.

Trên đường Thánh Giá được lập lại mỗi ngày nơi những ai - dọc theo vạn nẻo đường đời - từng bị đói khát cơm bánh và điều công chính, bị đói khát hòa bình và tự do, bị sỉ nhục, bắt bớ, đàn áp, đều có Mẹ Chúa GIÊSU đồng hành với chúng ta. Dưới chân Thánh Giá, Đức MARIA đã trở thành Mẹ của Giáo Hội và của toàn thể nhân loại được cứu chuộc ..

Sau lời nguyện mở đầu là Chặng Thánh Giá thứ nhất: Đức Chúa GIÊSU bị kết án tử hình. Bài trích Phúc Âm theo thánh Matthêô: Các thượng tế và kỳ mục xúi đám đông đòi tha tên BarabBas mà giết Chúa GIÊSU. Tổng trấn Philatô hỏi họ: “Thế còn ông GIÊSU, cũng gọi là KITÔ, ta sẽ làm gì đây?”. Mọi người đồng thanh: “Đóng đanh nó vào thập giá!”. Tổng trấn lại hỏi: “Thế ông ấy đã làm điều gì gian ác?”. Họ càng la to: “Đóng đinh nó vào thập giá!” .. Tổng trấn Philatô liền phóng thích tên Barabbas, còn Chúa GIÊSU, thì sau khi truyền đánh đòn, ông trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá (Mt 27,22-26).

SUY NIỆM. Một ngày bên bờ sông Giordano, Chúa GIÊSU đã nghe tiếng Thiên Chúa Cha, Cha Ngài, phán: "Đây là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng" (Mt 3,17). Hôm nay, nơi thành Giêrusalem, Chúa GIÊSU nghe tiếng các luật sĩ và kỳ mục lập lại lời họ tuyên án: "Ông ta đáng bị giết” (Mt 26,66). Rồi Chúa GIÊSU cũng nghe tiếng đám đông la hét: "Đóng đinh nó vào thập giá!" (Mt 27,23).

Người vô tội phải chịu một bản án bất công, nhưng Chúa GIÊSU im lặng và chấp nhận bản án tử hình. Chúa biết rằng, lời các tiên tri loan báo phải được ứng nghiệm nơi Ngài: “Hãy kết án người công chính bằng cái chết nhục nhã” (KN 2,20). Chúa GIÊSU cũng biết rõ chương trình nhiệm mầu của Thiên Chúa Cha: “Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án tử hình Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh Người vào thập giá” (Mt 20,18-19).

Trong thinh lặng, khi nhận lãnh bản án bất công, Chúa GIÊSU, vị Thầy Tối Cao, áp dụng điều mà Ngài đã từng nhắc nhở các môn đệ Ngài: “Anh em đừng lên án thì sẽ không bị Thiên Chúa kết án” (Lc 6,37).

Chặng Thứ Hai: Chúa GIÊSU bị vác Thánh Giá. Phúc Âm theo thánh Matthêô: Bấy giờ lính của tổng trấn đem Chúa GIÊSU vào trong dinh, và tập trung cả cơ đội quanh Người. Chúng lột áo Người ra, khoác cho Người một tấm áo choàng đỏ. Rồi kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy. Chúng quì gối trước mặt Người mà nhạo rằng: “Vạn tuế Đức Vua dân Do Thái!”. Rồi chúng khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy mà đập vào đầu Người. Chế giễu chán, chúng lột áo choàng ra và cho Người mặc lại áo của mình, rồi điệu Người đi đóng đinh vào thập giá (27,27-31).

SUY NIỆM. Chúa GIÊSU từ chối mọi đồng lõa với bất công, gian dối và Ngài chấp nhận mầu nhiệm Thánh Giá, hầu khẳng định chân lý và công bình.

Mầu nhiệm Thánh Giá kéo dài: ngày hôm nay, trong từng người bị kết án bất công, bị ngược đãi và bắt bớ, bị tước đoạt mọi quyền lợi và phẩm giá, thì đó chính là Chúa GIÊSU bị khinh bỉ và nhạo báng. Ngày nay cũng thế, Đức GIÊSU bị khoác áo choàng đỏ: màu đỏ máu huyết huynh đệ của không biết Bao nhiêu nạn nhân vô tội.

Bản án tử hình ngày xưa vẫn còn lập lại: nơi nào sự xua đuổi không đổi thành tiếp rước, bất công thành liên đới và thù hận thành tha thứ.

Tòa án Philatô, đám lính đưa đi xử .. ngày nay cũng thế, đó là các nhà tù vô nhân đạo, các trại tập trung sát hại, các vùng bị đặt vào cuộc “thanh lọc chủng tộc”, những con đường dài có từng đoàn lũ người tị nạn bồng bế nhau chạy trốn.

Chặng Thứ Năm: Ông Simon vác đỡ Thánh Giá cho Chúa GIÊSU. Bài trích Phúc Âm theo thánh Luca. Khi điệu Chúa GIÊSU đi, họ bắt một người từ đồng ruộng trở về, tên là Simon, gốc xứ Xirênê, đặt thập giá lên vai cho ông vác, theo sau Chúa GIÊSU. Dân chúng đi theo Người đông lắm, trong số đó có nhiều phụ nữ, vừa đấm ngực vừa than khóc Người (23,26-27).

SUY NIỆM. Chúa GIÊSU "sức mạnh của Thiên Chúa" (1Co 1,24), bị kiệt sức: rất có thể không đến được nơi xử. Cuộc hành hình, bị chết treo trên thập giá, rất có thể sẽ không diễn ra..

Thế là, họ liền bắt một người lạ mặt, một người yếu thế không đủ sức phản kháng, và đặt thánh giá của Chúa GIÊSU lên vai người này để ông vác thay cho Chúa GIÊSU. Họ làm thế vì tính toán chứ không phải vì lòng thương xót. Họ bắt buộc ông phải chấp nhận, bởi vì, ông ta đâu có dính dáng gì với tử tội? Họ đảo lộn chương trình của ông, họ bắt ông phải chịu cực nhọc, đáng lý được nghỉ ngơi, vì sau một ngày làm việc vất vả nơi đồng áng, ông trở về nhà.

Thế nhưng, khi vác Thánh Giá theo sau Chúa GIÊSU, ông Simon Xirênê, người mà trước đó bị bắt buộc, giờ đây bỗng trở thành tự do, từ người lạ, ông trở thành môn đệ của Chúa.

Thánh Giá nhiệm mầu: thánh giá trở thành thánh giá của chúng ta vì nó là thánh giá của người khác, của Chúa GIÊSU; vì thế, Thánh Giá là suối nguồn của ân sủng và tự do.

Mỗi người chúng ta, đối với người thân cận, phải trở thành ông Simon Xirênê: bằng cách chấp nhận thánh giá bất ngờ và vui lòng mang đỡ gánh nặng của người khác.

Chặng Thứ Sáu: Một phụ nữ lau mặt Chúa GIÊSU. Bài trích sách Tiên Tri Isaia: Người không đẹp cũng chẳng rực rỡ để lôi cuốn cái nhìn của chúng ta. Dáng điệu bên ngoài của Người chả có gì làm chúng ta vui thỏa. Người bị khinh bỉ, bị tất cả bỏ rơi, Người-của-đau-đớn, thân quen với đau khổ, giống như người phong cùi bị mọi người ngoảnh mặt không nhìn (53,2-3).

SUY NIỆM. Trên núi Thabor, khuôn mặt Đức KITÔ “trở nên sáng chói như mặt trời” (Mt 17,2); trên đồi Can-Vê, khuôn mặt này giờ đây bị sưng phù, đầy máu và gần như không còn hình tượng nữa. Trên núi Thabor, tỏ hiện vinh quang Thiên Chúa, còn trên đồi Can-Vê thì bị sỉ nhục vì tội lỗi loài người.

Nhưng không phải tất cả mọi người đều thụ động chấp nhận việc Người-Vô-Tội bị nhạo báng. Một phụ nữ, bà Vêrônica, đã dám vượt hàng rào hận thù và bạo lực, tiến đến bên Chúa GIÊSU, dùng khăn để lau mặt khuôn Chúa phủ đầy mồ hôi và máu. Thật là cử chỉ biểu lộ lòng can đảm và xót thương.

Một phụ nữ khác đã xức dầu chân Chúa, vài người nữ khác đứng gần Thánh Giá của Người Công Chính, các phụ nữ khác đã chuẩn bị mộc dược với trầm hương để tẩm liệm xác Chúa: đây là cử chỉ tiên tri, cử chỉ yêu thương vẫn luôn luôn làm sáng chói đời sống của Giáo Hội.

Nơi khuôn mặt đầm đìa máu của Vị Tử Tội, cái nhìn cảm thương của bà Vêrônica đã nhận ra khuôn mặt “đẹp nhất trong các khuôn mặt của con cái loài người” (TV 44,3): chỉ duy cái nhìn yêu thương mới phân biệt được trong khuôn mặt của người tị nạn, người bị lưu đày hay bệnh hoạn, những nét của khuôn mặt đau thương của Đức KITÔ.

Chặng Thứ Bảy: Chúa GIÊSU ngã lần thứ hai.

SUY NIỆM. Lần thứ hai, trên đường dẫn đến đồi Golgota, Chúa GIÊSU bị ngã quị dưới sức nặng của thánh giá: cái ngã quị tiên báo những sa ngã của chúng ta trên vạn nẻo đường cuộc sống.

Nhưng Chúa GIÊSU, Ngài biết điều Ngài phải đau khổ và yêu thương, không nhìn những vấp ngã của chúng ta cho bằng thiện chí chúng ta muốn đứng dậy và không Bao giờ rời xa đích điểm: chân lý, công bằng và thiện hảo.

Chán nản trước sự dửng dưng Bao quanh, bị đè bẹp dưới sức nặng khó khăn, con người ngày nay thường bị cám dỗ bỏ rơi cuộc chiến: con người có cảm tưởng mình chiến đấu vô ích chống lại sự dữ, bất công, gian dối và chán nản, con người nằm lì dưới đất.

Thế nhưng, trong Đức Tin, con người nhìn thấy Chúa GIÊSU đứng lên, được nâng đỡ bởi ước muốn hoàn thành sứ mạng mà Thiên Chúa Cha đã trao phó cho Ngài. Thế là, con người cũng mạnh dạn đứng lên, tự tâm lòng, nổi lên niềm tin tưởng nơi chiến thắng sau cùng của Sự Thiện, nơi chiến thắng vẻ vang của Công Bằng, nơi ánh sáng vô bờ của Chân lý.

2. PHÚC CHO NGƯỜI ĐÓI KHÁT ĐIỀU CÔNG CHÍNH.

Người đói khát điều công chính trước tiên là người sống tình bác ái sâu xa: “yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và yêu người thân cận như chính mình”. Đức công chính đi đôi với đức bác ái. Không thể có công lý nếu không có tình yêu thương và ngược lại, không thể sống yêu thương nếu không thực thi công bằng.

Tháng Giêng năm 1996, nơi tờ “Washington Post”, bà Irina Eremia Bragin đã viết bài ca tụng thân phụ mình dưới tựa đề: Cha tôi, vị anh hùng.

.. Cha tôi là sĩ quan cao cấp trong quân lực Rumani. Trong thời thế chiến

thứ hai, người gia nhập nhóm kháng chiến quân cộng sản, để phản đối chính quyền Rumani hợp tác với quân đức quốc xã. Lúc bấy giờ, kháng chiến quân cộng sản là tổ chức duy nhất dám đương đầu với chính quyền Rumani hùa theo quân Đức xâm lăng. Khi Ba tôi si tình mẹ tôi - một nữ nghệ sĩ trẻ đẹp - thì người đã mang lon cấp tá và là một trong những gương mặt nổi bật, có nhiều triển vọng nhận lãnh chức vụ cao trong hàng ngũ của tân chính quyền cộng sản.

Nhưng Ba tôi là một người quá lý tưởng. Chẳng bao lâu sau đó, người bị truất chức vì dám công khai chỉ trích một chế độ đặt nền tảng trên tham ô hối lộ. Người liền khởi công viết một tác phẩm vừa trào phúng vừa dã tưởng giống như cuốn tiểu thuyết “Các cuộc du hành của Gulliver”. Đó là tác phẩm châm biếm thời thế của Jonathan Swift (1667-1745), văn sĩ người Ái-nhĩ-lan. Tác phẩm của thân phụ tôi mang tên: “Gulliver du hành nơi xứ sở gian dối”. Trong sách, Ba tôi vạch trần mọi giả hình của chính quyền cộng sản Rumani. Viết xong, Ba tôi cẩn thận trao bản thảo cho một người bạn thân, nhờ người bạn này tìm đường kín đáo chuyển sang Pháp, đưa cho một nhà in lo việc ấn hành và phổ biến. Nhưng Ba tôi vô phúc rơi nhằm một người bạn giả. Chính người bạn này phản bội Ba tôi và giao nộp tác phẩm cho công an nhà nước Rumani. Ba tôi bị bắt và bị xử án bí mật năm 1958. Tòa kết tội Ba tôi 25 năm tù. May mắn thay, vì biết rõ tình thế đen tối và vận mạng rủi ro nên cha mẹ tôi đã chính thức li dị nhau vài tuần trước đó. Nếu không, mẹ tôi cũng cùng chung số phận với Ba tôi. Tuy không bị bắt, nhưng mẹ tôi bị mất tất cả: nhà cửa và công ăn việc làm.

Ngày Ba tôi bị bắt, tôi lên 5 tuổi. Trước khi tai nạn xảy ra, gia đình tôi sống trong hạnh phúc đầy tràn.. Tôi còn nhớ rõ, cứ mỗi lần Ba tôi trở về, tôi vui mừng chạy ra đón Ba: một người đàn ông cao lớn, mặc quân phục, bên trên có gắn đủ mọi thứ huy chương. Nhưng bỗng một ngày Ba tôi biến mất, không trở về nữa. Khi tôi hỏi, mẹ tôi trả lời: Ba con đi xa có chuyện, nhưng rồi Ba con sẽ trở về.. Tôi tin lời mẹ nói.

Một thời gian dài gia đình chúng tôi không hề nhận được tin tức gì của Ba tôi. Mãi đến năm 1964, nhà nước Rumani ân xá cho một số tù nhân chính trị, trong đó có Ba tôi. Khi Ba tôi trở về, tôi không nhận ra người và không chấp nhận người là Ba của tôi. Phải 8 tháng trời ròng rã, chúng tôi mới học biết nhau và chấp nhận nhau.. Nhưng hạnh phúc không kéo dài lâu. Nicolae Ceaucescu (1918-1989) lên nắm quyền cai trị Rumani. Ceaucescu là kẻ thù vừa chính trị vừa cá nhân của Ba tôi. Thấy tình thế không ổn, Ba tôi quyết định bảo mẹ tôi đưa hai con di tản sang Hoa Kỳ, ở Bang California. Một mình Ba tôi ở lại Rumani. Trong vòng 25 năm Ceaucescu cầm quyền, chúng tôi chỉ liên lạc với Ba tôi bằng thư từ. Năm 1989, chế độ cộng sản Đông Âu cáo chung, Ceaucescu qua đời, Ba tôi mới sang Hoa Kỳ thăm viếng chúng tôi.

Sau 25 năm trời xa cách, đây là lần đầu tiên Ba tôi giải thích cho tôi hiểu chọn lựa của người. Người trao cho tôi tập hồi ký chính tay người viết. Tôi đọc thấy đoạn: “Tôi có tất cả để được hạnh phúc: vợ đẹp, con ngoan và một sự nghiệp vẻ vang.. Nhưng, mỗi ngày, tôi đều chứng kiến cảnh người dân đói khổ, xếp hàng nối đuôi nhau trước những cửa hàng trống trơn. Vợ tôi khẩn khoản xin tôi hãy im tiếng để bảo vệ gia đình. Nhưng làm sao tôi có thể nhắm mắt làm ngơ trước tình trạng tuyệt vọng của các đồng bào tôi?. Kết quả, tôi bị đưa vào tù .. Một ngày sau lễ Giáng Sinh, ngày kính thánh Stêphanô tử đạo. Chìm ngập trong mớ kỷ niệm nên tôi không nhận ra tiếng ho khác thường liên tục của người tù, giam bên cạnh phòng tôi. Đó là một vị linh mục. Ngài là người tù duy nhất được phép ho, vì ngài bị lao phổi nặng. Nghe một lúc, tôi mới nhận ra là vị linh mục ho theo nhịp điệu đánh morse, những ký hiệu chúng tôi thường gõ nhẹ trên tường để thông báo cho nhau vài tin tức. Vị linh mục lợi dụng đặc ân, nên đã ho để đọc lời nguyện dâng lên thánh Stêphano cho các bạn đồng tù: Lạy thánh Stêphanô, ngài là vị tử đạo đầu tiên của KITÔ Giáo, xin hãy nghe lời chúng con khẩn cầu: xin hãy tháo cởi xiềng xích và giúp chúng con thoát khỏi những kẻ hành hung chúng con. Amen. Những đêm kế tiếp, tôi gõ trên tường để bắt liên lạc với vị linh mục. Nhưng im lặng hoàn im lặng. Tôi hiểu vị linh mục đã bị thủ tiêu. Ngài đã trả giá lời kinh bằng chính mạng sống của ngài ..”

3. PHÚC CHO NGƯỜI ĐÓI KHÁT ĐIỀU CÔNG CHÍNH.

Một người thực thi điều công chính khi người đó dám công khai bênh vực những người bị kết án bất công, dám đích thân giúp đỡ người bé nhỏ nghèo nàn, vô phương thế tự vệ, dám lên tiếng thay cho những kẻ không có tiếng nói hoặc những ai thấp cổ bé miệng. Nói cách khác, người thực thi điều công chính luôn ghé vai vác đỡ thánh giá cho người khác, bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu. Vác đỡ mà không so đo tính toán, không cân nhắc hơn thiệt, lợi hại. Dụ ngôn người Samaria nhân hậu (Lc 10,29-37) là một mẫu gương điển hình. Ngoài ra, vào ngày Tận Thế, Thiên Chúa đặc biệt ân thưởng cho những người thực thi điều công chính:

Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu. Bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người công chính ở bên phải rằng: “Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các con ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các con đã cho ăn; Ta khát, các con đã cho uống; Ta là khách lạ, các con đã tiếp rước; Ta mình trần, các con đã cho mặc; Ta đau yếu, các con đã thăm nom; Ta ngồi tù, các con đã thăm viếng” (Mt 26,31-46).

Người công chính là người đã thực thi bác ái cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Chúa GIÊSU: kẻ đói khát, người khách lạ, kẻ trần truồng, người bệnh tật và tù đày ..

4. PHÚC CHO NGƯỜI ĐÓI KHÁT ĐIỀU CÔNG CHÍNH.

Từ lúc sinh ra cho đến khi chết, con người đói khát cơm bánh. Vừa mở mắt chào đời, đứa bé đã biết mở miệng tìm kiếm và ngậm lấy vú mẹ để bú. Vào phút cuối đời, người bệnh cũng hé môi tiếp nhận chút ít lương thực hầu làm giảm bớt cái dằn vặt đớn đau của cơn hấp hối. Con người lam lũ làm việc, tạo ra thức ăn của uống để nuôi sống. Đất đai trở thành cánh đồng khổng lồ, nơi con người đến canh tác đủ mọi thứ hoa mầu. Nhưng con người phải chăng là một con vật, chỉ biết có cơm bánh? Không, con người là con Thiên Chúa. Con người chỉ sống tạm nơi dương trần một thời gian. Và trong cuộc sống tạm này “con người sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4). Khi lìa bỏ trần gian, con người mới thực sự đi vào cuộc sống vĩnh cửu.

Bên trong thân xác còn có cuộc sống tâm linh. Đó là linh hồn. Linh hồn thì bất tử. Khi thân xác chết, linh hồn vẫn tiếp tục sống. Nếu thân xác một ngày kia phải chết mà con người vẫn tìm đủ cách để nuôi sống, thì đối với linh hồn bất tử, con người còn cần phải làm mọi cách hơn nữa, để mãi mãi bảo tồn sự sống. Nuôi sống linh hồn bằng cách nào?. Bằng sự Khôn Ngoan và điều Công Chính của Thiên Chúa. Con người tìm kiếm chiếm hữu sự Khôn Ngoan và ước mong hiểu biết điều Công Chính. Suốt trong cuộc hành trình dương thế, linh hồn con người luôn luôn đói khát điều Công Chính, nghĩa là, đói khát chính Thiên Chúa. Bởi vì, Thiên Chúa là Đấng Công Chính. Thánh Augustino van xin: “Xin hãy trao Ban Ngài cho con, lạy Chúa Thiên Chúa của con; hãy luôn luôn trao Ban Ngài cho con. Không một mức độ đo lường nào có thể cho con biết: phải Bao nhiêu tình yêu nữa mới khiến cho lòng con được no thỏa!. Tất cả những gì con biết, chính là: không có Chúa thì đời con chỉ toàn là lầm lỗi. Mọi sung túc sang giàu mà không phải là Chúa thì chỉ là bần cùng khốn khổ!”.. Đúng thế. Và đây là niềm đói khát được Chúa GIÊSU chúc phúc: “Phúc cho người đói khát điều công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng” (Mt 5,6).

IV. PHÚC CHO NGƯỜI HAY THƯƠNG XÓT

1. PHÚC CHO NGƯỜI BIẾT THA THỨ

Cha Emmanuel TuBane là một linh mục Rwanda thuộc chủng tộc Tutsi, được thụ phong linh mục năm 1985. Vài năm sau, cha được chỉ định làm cha sở nhà thờ chính tòa Butaré, thành phố đông dân thứ hai sau thủ đô Kigali. 50% dân số Rwanda là tín hữu Công Giáo. Giữa thập niên 1990, Rwanda bị rơi vào cảnh xung đột giữa hai chủng tộc Tutsi và Hutu, khiến cho hàng mấy trăm ngàn người vô tội bị giết. Cha Emmanuel TuBane đã may mắn thoát chết trong cuộc diệt chủng này. Có người hỏi: “Thưa cha, cha đã thoát chết, vậy cha có sẵn lòng tha thứ cho những người định tâm sát hại cha không?” Cha trả lời:

“Sự tha thứ đích thực là cử chỉ hòa bình giữa người tha thứ và kẻ được thứ tha. Sự tha thứ đích thực không hệ tại việc quên đi hoặc khi nói: Tôi tha thứ cho bạn. Không Bao giờ được thù ghét người anh em mình, nhưng chỉ ghét bỏ điều dữ nằm trong người anh em cũng như nằm trong chính chúng ta. Sự tha thứ đích thực là chân lý. Nó có sức giải thoát tôi và giải thoát người anh em tôi. Nếu tôi thật lòng tha thứ, tôi không còn bị ám ảnh bởi ý tưởng trả thù, luôn chiếm ngự trong con tim và trong tinh thần tôi. Sự tha thứ cũng giải thoát người anh em tôi, bởi lẽ người anh em tôi không còn cảm thấy mình là thủ phạm, là kẻ bị theo đuổi.

“Công lý không phải là con đường một chiều. Nếu chỉ luôn luôn tìm cách phạt các tội nhân thì người ta sẽ dễ dàng quên đi việc giúp các tội nhân tìm lại được thế quân bình .. Kính trọng sự sống tức là biết khẳng định điều gì đúng và tố giác điều gì sai. Ý nghĩa sự sống đi kèm với lòng kính trọng sự sống sẽ đưa đến việc thiết lập công lý.. Với tư cách vừa là tín hữu KITÔ vừa là linh mục Công Giáo, tôi có bổn phận phải làm gương và giúp cho người khác biết sẵn lòng tha thứ.

“Tại Rwanda chúng tôi có rất nhiều đoàn thể giúp các tín hữu Kitô suy tư và sống đạo. Đứng đầu là hội đoàn Công Giáo Tiến Hành. Tiếp đến là Hội Đạo Binh Đức Mẹ và sau cùng là Hội Thánh Tâm. Đặc biệt là Hội đoàn Thánh Tâm giúp ích cho đời sống thiêng liêng của chúng tôi rất nhiều. Chính nhờ lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa GIÊSU mà chúng tôi nhận ra và đón tiếp tình yêu Thiên Chúa. Rồi chúng tôi biết trao tình yêu Thiên Chúa cho người khác.

“Hội đoàn Thánh Tâm rất được phổ biến tại Rwanda. Tôi xin đan cử một thí dụ. Cụ già Augustino 75 tuổi, nhưng cụ luôn trung thành với những gì đã đoan hứa lúc còn trẻ, với tư cách là thành viên phong trào Thánh Tâm. Cứ mỗi Thứ Sáu Đầu Tháng, cụ khó nhọc đi bộ 5 cây số đến nhà thờ tham dự thánh lễ. Vào một ngày Thứ Sáu Đầu Tháng, thấy cụ mệt hơn thường lệ, mọi người trong gia đình đều cản không cho cụ đi lễ. Nhưng cụ Augustino giải thích: Tôi nhất định đi lễ. Bởi vì, tôi phải đi đến nguồn suối cuộc đời tôi để kín múc sức mạnh.

“Nhiều tín hữu Kitô thường đọc kinh LẠY CHA nhưng không chú ý đủ đến ý nghĩa lời kinh Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Lời kinh này mang trọn ý nghĩa tại Rwanda. Tôi còn nhớ như in, trong những tháng ngày đau thương, khi cuộc diệt chủng diễn ra tại Rwanda, nhiều tín hữu Công Giáo đã cầu nguyện cho những kẻ giết hại mình. Có tín hữu KITÔ trước khi chết đã nói: Các anh không biết việc các anh làm. Do đó, chúng tôi tha thứ cho các anh. Các anh chỉ bị cơn lốc cuồng điên lôi cuốn đi, thế thôi.

Mãi đến nay, vẫn có người hỏi tôi: “Con có quyền lên án kẻ đã làm cho con Bao điều dữ không?” Tôi dứt khoát trả lời: “Không, anh không có quyền kết án người khác. Với tư cách là tín hữu Kitô, anh phải xóa bỏ khỏi tâm lòng anh mọi ước muốn trả thù. Nói khác đi, anh phải tha thứ”. Thật ra khi một người hỏi tôi như vậy, cũng có nghĩa là người đó đã nghĩ đến việc tha thứ và có lẽ, sẽ sẵn lòng tha thứ.. Vâng, chúng tôi phải tha thứ thì mới có thể cùng nhau đọc kinh LẠY CHA: Lạy Cha chúng con ở trên trời: chúng con nguyện danh Cha cả sáng; Nước Cha trị đến; ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày; và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con; xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ: nhưng cứu chúng con khỏi mọi sự dữ. Amen” ..

2. PHÚC CHO NGƯỜI BIẾT THA THỨ

.. Năm 1995, trên đảo Sardegna, miền Tây nước Ý, thị trưởng cùng giới chức chính quyền và nhân dân thành phố Villasimius, đã trồng cây ôliu tha thứ nơi công viên dành cho công dân danh dự của thành phố là kỹ sư Giancarlo Bussi. Cố kỹ sư là một trong những nạn nhân đầu tiên của nạn bắt cóc người đòi tiền chuộc của các băng đảng ở đảo Sardegna. Cây ôliu cao lớn 100 năm dành để tưởng niệm vị kỹ sư của hãng chế tạo xe đua Ferrari của nước Ý, nổi tiếng nhất thế giới. Kỹ sư bị bắt cóc ngày 4-10-1978, bị đòi tiền chuộc 2 tỉ 500 triệu lire, tức tương đương với 1 triệu 250 ngàn mỹ kim. Sau mấy tháng trời thương lượng, kỹ sư Bussi bị bọn bắt cóc thủ tiêu. Một số thủ phạm có dính líu tới vụ bắt cóc kỹ sư Giancarlo Bussi đã bị bắt và bị kết án tù. Có người bị lao động khổ sai; có kẻ bị 30 năm tù; có người 20 năm tù.

Góa phụ trẻ Edda Bussi, trong cơn đau đớn khôn cùng, đã không bao giờ nguyền rủa và oán hận những kẻ đã giết chết chồng và gieo tang tóc cho gia đình mình. Bà nói: “Ngay từ đầu, tôi đã sẵn sàng tha thứ cho họ. Tha thứ thật trong lòng, như Đức Thánh Cha Gioan Phaolo 2 đã tha thứ cho kẻ ám sát ngài, mặc dù sự tha thứ của Đức Thánh Cha không làm giảm bớt những năm tháng tù tội của kẻ sát nhân, bởi vì công lý phải được tôn trọng. Phần tôi, tôi không Bao giờ đối xử tàn nhẫn với kẻ thù, không nguyền rủa họ, cũng không kiện cáo đòi bồi thường. Nhiều người thân không hiểu và trách cứ tôi. Nhưng tôi vẫn một mực tha thứ vì tôi là tín hữu KITÔ, là người Công Giáo. Khi bạn nguyền rủa ai, thì chính bạn cũng mất đi niềm an bình nội tâm”.

.. Niềm an bình của bà góa phụ Edda Bussi đến từ thái độ nhẫn nhục, chấp nhận thử thách. Bên ngoài bà có dáng vẽ của một phụ nữ hiền dịu mảnh mai, nhưng bên trong lại ẩn chứa một sức chịu đựng phi thường.

Sau hơn 20 năm kể từ khi xảy ra biến cố đau thương, bà Edda Bussi vẫn còn nhớ như in những tháng ngày thử thách. Bà nói: Hôm ấy là ngày 4-10-1978, hai vợ chồng chúng tôi đang tận hưởng những giây phút thoải mái êm đềm. Chúng tôi cùng với hai đứa con, một trai một gái, đến nghỉ nơi dinh thự người anh rể của chồng tôi. Dinh thự nằm trong một địa điểm thật đẹp của đảo Sardegna. Vì phải nhập học, nên hai con tôi trở về nhà trước. Chỉ còn lại hai vợ chồng chúng tôi. Khi toán người võ trang đột nhập vào nhà, thật ra họ chủ ý tìm bắt cóc người anh rể của chúng tôi. Không tìm thấy anh, họ bắt chồng tôi. Thoạt nhìn thấy họ, tôi cứ ngỡ đây là một bọn người chỉ muốn cướp của, nên cố gắng giữ bình tĩnh và tìm lời đối thoại, thoát hiểm nguy.. Đến khi chồng tôi bị đưa đi rồi, tôi mới hiểu đây là bọn bắt cóc người đòi tiền chuộc.. Ngay cả khi đối diện với những người trông thật dữ dằn, hung ác, tôi vẫn không oán ghét căm thù họ. Tôi chỉ cảm thấy xót thương họ, bởi vì họ thật là những kẻ đáng thương, tự đánh mất cuộc sống và phần rỗi đời đời..

Những tháng ngày tiếp đó thật là thời gian vô cùng đau khổ. Bọn người bắt cóc đòi tiền chuộc tương đương với 1 triệu 250 ngàn mỹ kim. Một món tiền khổng lồ. Tìm đâu cho ra? Sau đó họ giảm xuống. Nhưng tôi vẫn không chạy được số tiền mà bọn bắt cóc đòi hỏi. Một ngày, tôi nhận được cú điện thoại đe dọa: “Bà nên nhớ rằng, khi chúng tôi bắt cóc người nào thì có nghĩa là kẻ đó vĩnh viễn nằm trong tay chúng tôi. Bà không bao giờ trông thấy mặt chồng bà nữa!”. Sau cùng, nhà tôi bị thủ tiêu. Năm đó, anh tròn 46 tuổi..

Khi những kẻ thủ phạm bị kết án, có người nhận tội để được xin ân xá. Ông ta viết thư xin lỗi bà Edda Bussi và xin trả tiền bồi thường. Bà Edda Bussi sẵn sàng tha thứ như vẫn tha thứ ngay từ đầu. Tuy nhiên bà trả lời: “Ông chỉ có thể chuộc lại lỗi lầm của ông bằng cách theo đúng tiếng nói của lương tâm, kêu xin Thiên Chúa Nhân Từ tha thứ cho ông. Xin chào ông”.

3. PHÚC CHO NGƯỜI HAY THƯƠNG XÓT

.. Vào lúc 2 giờ sáng, một thiếu nữ duyên dáng gọn gàng trong chiếc áo len và chiếc quần jeans, trượt ống thải đồ từ lầu bốn xuống. Nhưng khi vừa đặt chân lên đất, cô gái chạm trán với nhân viên cảnh sát đi tuần. Ông nhìn thẳng cô gái và nghiêm nghị nói: “Khám phá bất ngờ! Thay vì đi ăn trộm có lẽ cô nên ghi tên vào một gánh xiệc!” Lúng túng vì sợ vị cảnh sát to tiếng đánh thức thân phụ đang ngủ, cô gái vội vàng giải thích hành động “đi đêm” của mình..

Thiếu nữ ấy là Sally Trench, 18 tuổi, đang sống với cha mẹ ở Luân Đôn, thủ đô Anh Quốc. Vào một buổi tối, khi trở về nhà sau nửa đêm, lúc bước xuống ga “Waterloo” nằm ở ngoại ô, Sally đụng phải vật gì mềm mềm, động đậy.. Giật mình, cô cúi xuống nhìn kỹ thì thấy đó là một phụ nữ cao tuổi, quấn chung quanh người một tấm chăn rách nát. Bà nằm trên mấy tờ báo. Nhưng không chỉ có mình bà. Dọc theo bờ tường nhà ga, còn có nhiều người khác. Đàn ông nằm lẫn lộn với đàn bà. Tất cả đều ăn mặc rách rưới bẩn thỉu. Người nào may mắn hơn thì có được chiếc áo khoác bằng len, quấn chung quanh mình cho đỡ lạnh.. Sally thật đau lòng khi trông thấy cảnh tượng đó. Cô có thể lạnh lùng làm ngơ bỏ đi, như thầy tư tế trong Phúc Âm khi trông thấy người bị thương nằm bên vệ đường.. Nhưng Sally bắt chước người xứ Samaria nhân hậu. Cô đến bên những người này, cho tay vào túi, lấy tất cả tiền và phân phát cho họ. Một người trong nhóm cất tiếng nói: “Đây không phải là chỗ của cô ở giữa những người quá bẩn thỉu. Cô quá ngây thơ duyên dáng! Tốt hơn cả là cô nên trở về nhà”.

Sally trở về nhà và khi cầm trên tay ly chocolat nóng hổi, uống trước khi lên giường ngủ, cô gái tự nhủ: “Thiên Chúa cho mình quá nhiều, không thiếu thốn sự gì. Lẽ nào mình chỉ giữ riêng cho một mình mình thôi?”

Ngay đêm hôm sau đó, lần đầu tiên, Sally thức dậy vào lúc 2 giờ sáng. Cô bỏ vào xách mấy gói thuốc lá và một bình cà phê nóng. Xong, cô đi rón rén để không đánh thức cha mẹ dậy. Thay vì mở cửa chính, cô dùng ống chuyển đồ và trượt từ lầu bốn xuống đất. Cô đi thẳng ra nhà ga “Waterloo”. Cô đến bên những người nghèo, đang ngủ trên nền nhà ga và phân phát thuốc lá cùng cà phê nóng cho họ. Cô mang đến cho họ hơi ấm của cà phê và của tình người, trong những đêm mùa đông giá buốt.

Từ đó, cuộc viếng thăm những người không nhà cửa ở nhà ga Waterloo trở thành thông lệ. Cứ vào lúc 2 giờ sáng, Sally thức giấc, mặc quần jeans, khoác áo len, xách cà phê nóng và thuốc lá đến thăm những người nghèo nơi nhà ga Waterloo. Vào lúc 4 giờ sáng, cô lại có mặt ở nhà, lên giường ngủ tiếp.

Thỉnh thoảng, trong những chuyến “đi đêm” như thế, Sally gặp lại người cảnh sát của đêm đầu tiên. Ông ta vừa bắt tay Sally vừa nói: “Tất cả những gì cô làm đều thật đẹp và có tinh thần KITÔ nữa!”

Sau một thời gian giúp đỡ những người sống lang thang không nhà không cửa, Sally lại khám phá ra một nhóm người trẻ bụi đời, sống bất cần gia đình và xã hội. Họ sống vô kỷ luật và ưa chuộng tự do, nhưng là một thứ tự do bệnh hoạn, làm những điều không được phép làm như hút xì-ke, ma túy. Sally đến sống với nhóm bạn trẻ này, để tìm hiểu và chia sẻ nếp sống với họ. Nhiều người trẻ bụi đời sau đó khám phá ra ý hướng ngay thẳng và bác ái của Sally, liền tặng nàng danh hiệu “Sally, tín hữu Công Giáo”.

Một hôm, một người trẻ bụi đời nói với Sally: “Tôi thật khâm phục lòng tốt của cô. Nhiều người cũng mang danh hiệu tín hữu Công Giáo nhưng không hề làm một công việc bác ái nào giúp người khác”. Sally khiêm tốn trả lời: “Tôi không chỉ trích ai hết. Với kinh nghiệm cá nhân, tôi biết rằng: sống đúng danh nghĩa tín hữu Công Giáo không phải là chuyện dễ. Phải thực thi tinh thần KITÔ suốt cuộc đời mình”..

Sally Trench là tín hữu Công Giáo. Nhiều người thiện nguyện khác cùng làm việc giúp đỡ những người trẻ bụi đời, những người nghèo sống lang thang không nhà không cửa, là tín hữu anh giáo hoặc tin lành. Nhưng tất cả cùng làm việc trong hòa hợp, một lòng một ý với nhau. Họ thường cầu nguyện chung, cùng đọc và chia sẻ Phúc Âm với nhau.. Rồi giúp đỡ nhau mỗi khi cần.

4. PHÚC CHO NGƯỜI HAY THƯƠNG XÓT

.. Ngày 24-1-1925, Guy de Fontagalland qua đời vì bệnh bạch hầu, tại thủ đô Paris, lúc vừa tròn 11 tuổi. 11 năm ngắn gọn, nhưng cuộc đời bé Guy có đầy dẫy những giai thoại yêu thương của tình bác ái. Xin đan cử một trường hợp.

Guy rất yêu chuộng việc dâng của bố thí cho người nghèo. Nhưng cậu bé chưa làm ra tiền. Do đó, cậu chỉ có thể cho người nghèo những gì cha mẹ cậu cho cậu, để bố thí cho người nghèo. Vì thế, của bố thí này không dồi dào, theo như lòng cậu bé mong muốn. Guy bèn nghĩ ra một cách thế để dâng cho người nghèo chút của gì riêng tư, đến từ chính bản thân cậu. Đó là cái bắt tay, siết chặt tay người nghèo, đi kèm với số tiền dâng cúng. Khi bị cha mẹ la rầy, vì cậu bé bắt tay tất cả những người bẩn thỉu, rách rưới, lang thang đầu đường xó chợ, thì Guy giải thích: “Mấy đồng tiền là của Ba Má, nhưng cái bắt tay, nó mới đích thực là của chính con!”

5. PHÚC CHO NGƯỜI HAY THƯƠNG XÓT

Thẩm phán Federico Eramo, 38 tuổi, đã lập gia đình và có một cậu con trai Ba tuổi. Ông phụ trách phân bộ điều tra sơ khởi của Tòa Án dành cho trẻ vị thành niên ở thành phố Aquila, cách thủ đô Roma khoảng 150 cây số. Thẩm phán Eramo có lối cư xử và phán quyết các tội phạm không giống ai.

Một hôm, thẩm phán đã ra hình phạt cho một tên trộm vị thành niên - ăn cắp một bộ sách cổ quý giá - phải đọc trọn bộ sách đó.. Với một thiếu niên dám lái xe mà chưa có bằng, vị thẩm phán đã ra hình phạt cho thiếu niên phải đi học và lấy bằng lái xe. Khi thiếu niên ăm trộm bộ sách cổ đã đọc xong và trả bài, cũng như thiếu niên thứ hai đã thi được bằng lái xe thì vị thẩm phán tha bổng hai bị cáo vị thành niên..

Nếu thẩm phán Eramo là một giáo sư, hẳn ông sẽ là một giáo sư nghiêm khắc, biết giáo dục người trẻ học hành nghiêm chỉnh. Nhưng ông hoàn toàn phản đối những bậc thầy chỉ biết trừng phạt và những người cha chỉ biết lớn tiếng la rầy con cái. Thẩm phán nói: Tôi không la hét cũng không trách mắng. Tiêu chuẩn tôi theo là việc “đầu tư tuổi trẻ”. Nghĩa là, tôi chú ý đến tương lai của những người trẻ phạm pháp. Tôi muốn giáo dục họ nên người, tôi muốn dạy cho họ biết yêu thích làm việc và nhất là, dạy cho họ biết tự đào luyện bản thân và xây dựng cuộc đời.. Nếu tôi theo đuổi các mục tiêu này thì tôi đâu có làm điều gì khác lạ? Nơi Hiến pháp quốc gia, điều 27, triệt 3 người ta đọc thấy: “Các hình phạt không được trái ngược với ý nghĩa nhân đạo và phải nhắm đến việc tái huấn luyện người bị kết án”.

“Chúng tôi nắm trong tay đời sống của nhiều người. Thật sai lầm nếu nghĩ rằng thẩm phán là người phải xét xử quá khứ. Không đúng như vậy. Nghề nghiệp của thẩm phán bắt buộc ông phải thông cảm và yêu thương quần chúng. Cần có một lương tâm tỉnh thức. Tôi không chăm chú nghiên cứu hồ sơ tội phạm, nhưng nhìn thẳng vào thực trạng cuộc sống của các phạm nhân. Trước mặt tôi là những trẻ em bị bỏ rơi, bị đánh đập, những người trẻ phạm pháp bị chới với trong dòng đời.. Do đó, vị thẩm phán của những người trẻ phạm pháp, phải nhìn thẳng vào đôi mắt người trẻ và nghiên cứu học hỏi về gương mặt mầu da của người trẻ, trước khi lấy dấu tay, tùy theo trường hợp, đúng theo lẽ phải. Có nhiều người trách cứ tôi không thi hành nghiêm chỉnh nghề nghiệp của vị thẩm phán và sẽ đưa đến việc khinh thường pháp luật. Tôi xin trả lời rằng: Tôi không thuộc loại thẩm phán chỉ biết nghiên cứu hồ sơ phạm pháp mà không bao giờ tìm hiểu đôi mắt của kẻ phạm pháp.. Nếu tôi có quyền, hẳn là tôi sẽ bắt buộc tất cả các vị thẩm phán phải trải qua một thời gian làm việc tại các tòa án dành cho trẻ vị thành niên. Có thế, các vị thẩm phán mới học biết thế nào là cuộc sống, thế nào là công lý, rồi sẽ biết tôn trọng luật pháp và phục vụ Hiến Pháp quốc gia một cách hữu hiệu hơn..

“Nước Ý có một trong những nền pháp chế thật tiến xa. Nền văn minh Hoa Kỳ cho phép giam tù các trẻ vị thành niên. Trong khi tại nước Ý, luật pháp cấm việc giam tù các trẻ em. Và từ Ba năm nay, Tối Cao Pháp Viện nghiêm cấm hình phạt lao động khổ sai dành cho người trẻ. Điều này có nghĩa là luật pháp tìm mọi cách để ngăn cản việc giam tù các trẻ em phạm pháp.. Thay vì giam tù, đánh đập các trẻ em, tôi giao chúng cho các trợ tá, các trung tâm xã hội. Nhiều người la ó, không bằng lòng. Đối với họ, trẻ phạm pháp phải đền tội mình: “Mắt thay mắt, răng đền răng”. Đây là não trạng trả thù. Trong khi đó, biện pháp tái giáo dục người trẻ phạm pháp thường mang lại kết quả tốt đẹp, gần như 90%. Do đó, tôi không bao giờ giam tù các trẻ vị thành niên, nhưng tìm cách giúp chúng học hỏi để tự xây dựng tương lai của chính mình”..

Phán quyết và lập trường của thẩm phán Federico Eramo đối với người trẻ phạm pháp chứng tỏ ông kính trọng con người, và trước khi hành nghề thẩm phán, ông thi hành bổn phận của một người cha nhân hậu, tìm đủ mọi phương thế để giáo dục những người con ương ngạnh và ngỗ nghịch nhất.

6. PHÚC CHO NGƯỜI HAY THƯƠNG XÓT

Không một ai lại không cần đến lòng từ bi thương xót. Nếu Luật xưa của Do thái giáo dạy rằng: “Mắt đền mắt, răng đền răng” thì Luật mới của Kitô Giáo dạy rằng: “Kẻ nào thương xót thì sẽ được xót thương”. Thay vì luật báo thù, ân đền, oán trả, Chúa GIÊSU thành Nagiarét dạy: Hãy tha thứ thì sẽ được thứ tha. “Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì anh hãy cho; ai muốn vay mượn, thì anh đừng ngoảnh mặt đi” (Mt 5,39-42).

Luật xót thương và tha thứ là luật công bằng và khôn ngoan nhất. Không ai là người không có tội. Không ai là kẻ không cần được tha thứ. Người ta có thể xin tha thứ bằng nhiều cách. Người ta cũng có thể đền bù tội lỗi, chuộc lại lỗi lầm bằng các việc hy sinh và những của lễ dâng cúng.

Phúc cho người biết xót thương những ai đói khát, trần trụi, không nhà cửa. Miếng khi đói bằng gói khi no. Và cũng phúc cho người biết xót thương những ai có tính tình kỳ cục, ác độc, thường làm cho người khác phải đau khổ điêu đứng. Cái nghèo nàn tinh thần còn đáng thương hơn gấp ngàn lần cái nghèo nàn vật chất. Vì thế, người nào biết cảm thông với những ai hay gây rắc rối, gieo rắc tang thương cho cuộc chung sống hòa bình, quả là người có tấm lòng nhân hậu, đáng được ngợi khen chúc phúc.

Trong thời gian từ 1980 đến 1985, Đức Mẹ và Chúa GIÊSU đã ủy thác cho một tín hữu Công Giáo đạo đức người Ý, sứ điệp tình thương của Trời Cao. Trong số các sứ điệp được ủy thác, có 10 điều luật dành cho tâm hồn sống theo lời mời của Chúa GIÊSU và Mẹ MARIA:

1. Cầu nguyện liên lỉ: lời cầu nguyện tạo thành vòng đai an ninh các thiên thần vây bọc chung quanh con. 2. Đừng chọc tức ma quỉ, con chỉ nên nói với nó: Xéo đi, hỡi Satan, bởi vì ta yêu mến Thiên Chúa và ta thuộc về Chúa 3. Đừng bao giờ nghĩ mình tốt hơn người anh chị em mình, vì mình yêu mến Thiên Chúa. Con không thể biết được Thiên Chúa có dự án nào trên người anh chị em ấy. 4. Hãy cầu nguyện cho người anh chị em đang sống xa Chúa; người anh chị em ấy đang mang thánh giá nặng hơn thánh giá của con. 5. Hãy dâng mình con cho Chúa để cầu cho người anh chị em lầm lạc; nhờ thế, lỗi lầm của người đó được giảm bớt và người ấy sẽ được mau trở về cùng Chúa. 6. Hãy biểu lộ tình yêu bằng hành động, chứ không phải bằng lời nói suông mà thôi. 7. Con là người đang sống trong Chúa, hãy nhớ cảm tạ ơn Chúa, vì con không phải mang gánh nặng của ma quỉ. 8. Hãy nhìn mỗi người anh chị em con với đôi mắt của con tim, chứ đừng bao giờ nhìn với đôi mắt trần. 9. Hãy tiếp đón những tội nhân nặng nhất và dâng họ cho Thiên Chúa; Thiên Chúa sẽ biến đổi các tội nhân ấy thành các viên bích ngọc. 10. Hãy sống trong tư thế luôn luôn sẵn sàng dâng trái tim con cho Chúa, bất cứ lúc nào Ngài gọi con ra trước tòa Chúa.

Người ta ghi nhận là trong số 10 điều luật dành cho một linh hồn sống theo tiếng gọi của Tình Yêu, có đến 7 điều luật liên quan đến đức bác ái, đặc biệt đối với những anh chị em có đời sống tinh thần kém may mắn hơn mình. Người anh chị em có đời sống bất toàn, mang thánh giá nặng hơn. Nhưng không ai biết được ai hoàn hảo hơn ai. Cách tốt nhất nhất là sống tinh thần bác ái và khiêm tốn, để yêu thương và chịu đựng người anh chị em như chính mình vậy. Có thế, con người mới được Thiên Chúa yêu thương và chúc phúc. “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7).

V. PHÚC CHO NGƯỜI XÂY DỰNG HÒA BÌNH

1. PHÚC CHO NGƯỜI XÂY DỰNG HÒA BÌNH.

Ngày 4-11-1995, thủ tướng Israel, ông Yitzhak Rabin, ngã gục dưới loạt đạn của một sinh viên cuồng tín Do thái giáo, Igal Amir, 27 tuổi. Từ đó, khuôn mặt của người chiến sĩ hòa bình luôn sống động trong tâm khảm những người mơ ước và xây dựng hòa bình. Một năm sau, nhân lễ giỗ, Noa Ben Artzi-Pelossof, cháu ngoại của cố thủ tướng, đã phác họa chân dung tinh thần của cố thủ tướng Rabin trong cuốn sách tựa đề: Nhân danh sầu khổ và hy vọng. Noa Ben viết:

Tôi tin chắc chắn rằng, mỗi người dân Israel đều nhớ như in cái ngày mà ông Ngoại Yitzhak Rabin bị ám sát.. Ngày hôm đó, mặt trời chiếu sáng tươi vui như một ngày mùa xuân. Theo chương trình dự định, tối hôm đó, nơi công trường “Các Vị Vua Israel”, ở trung tâm thủ đô Tel Aviv, diễn ra cuộc mít-tinh nhằm mục đích ủng hộ tiến trình hòa bình tại Trung Đông và chống lại mọi hình thức bạo lực chính trị.. Khi được tin ông Ngoại sẽ có mặt tại buổi mít-tinh này, toàn gia đình chúng tôi vô cùng hoan hỉ. Chúng tôi cùng nghĩ: Như thế, ông Ngoại sẽ thấy rõ là có nhiều người dân Israel theo gót thủ tướng và yêu mến thủ tướng, cũng như tin tưởng nơi thủ tướng và nơi chính sách cai trị của thủ tướng..

.. Vào đầu tháng 6 năm 1992, khi trở thành thủ tướng Israel, Ngoại đã khơi dậy nơi chúng tôi niềm hy vọng hòa bình. Ngoại hứa sẽ chấm dứt mọi cuộc xây cất nhà cửa nơi vùng bị chiếm đóng để đưa dân tộc Palestine dần dần đến chỗ tự trị, tự quyết, tự cường. Ông Ngoại bắt tay thân hữu với tổ chức giải phóng Palestine OLP. Ngay khi khởi đầu cuộc thương thuyết ngầm với OLP, tôi thấy Ngoại có gì đổi khác. Giờ thì tôi hiểu tại sao. Bởi lẽ nơi chính ông Ngoại, diễn ra cuộc tranh chấp nội tâm. Ông Ngoại phải bắt nhịp cầu nối kết giữa thái độ dè dặt nghi kỵ đối với người Ả Rập và ước muốn sâu xa xây dựng hòa bình.

Dĩ nhiên trong gia đình, Ngoại không bao giờ đề cập đến các vấn đề chính trị. Nếu có dịp nói đến thì Ngoại chỉ nói thoáng qua. Nhưng bù lại, Ngoại hay hỏi chúng tôi về phản ứng của giới trẻ. Giới trẻ mong muốn và chờ đợi gì nơi giới chức chính trị? Người trẻ nói gì, trao đổi gì với nhau nơi trường học, trong các quán giải khát và ngoài đường phố? Tóm lại, chính tương lai của người trẻ khiến Ngoại bận tâm và ra sức chuẩn bị!

Ngày 13-9-1993 như hằn sâu trong trí nhớ của tôi. Đó là ngày ông Ngoại Yitzhak Rabin và chủ tịch Yasser Arafat bắt tay nhau trước sự chứng kiến của toàn thế giới.. Người ta có cảm tưởng như toàn khối nặng đau khổ của Israel và những hành hạ dằn vặt xa xưa đè nặng trên đôi vai ông Ngoại. Đây không phải là điều dễ dàng đối với Ngoại. Làm sao một cựu-chiến-binh lại có thể đặt niềm tin tưởng nơi một cựu-khủng-bố? Nhưng ông Ngoại đã vượt thắng mọi nghi kỵ cùng thành kiến, bởi lẽ ông Ngoại vẫn thường lập đi lập lại câu nói: Hòa bình thương lượng với kẻ thù chứ không phải với bạn thân!

Vì những lý do chính trị và an ninh, chủ tịch Yasser Arafat không có mặt trong tang lễ của Ngoại. Ông chỉ kín đáo đến phân ưu với gia đình chúng tôi sau đó. Khi ông bước vào nhà, ông ôm hôn bà Ngoại và má, Ba lần trên đầu, theo tập tục. Rồi ông cũng ôm hôn tôi Ba lần trên đầu. Xong chúng tôi ngồi xuống. Tôi tò mò quan sát ông. “Kẻ thù” Arafat đang có mặt trong nhà chúng tôi! Nhưng rồi tôi thấy trước mắt mình hình ảnh của một người lịch thiệp, nhã nhặn và ăn nói tự nhiên! Tôi liền nhớ tới câu nói của ông Ngoại: Thì ra, xét cho cùng, ông Yasser Arafat cũng là một người tử tế!

.. Hy vọng rằng kỷ niệm của tôi về ông Ngoại Yitzhak Rabin sẽ lay động tâm lòng những người trẻ. Hỡi các bạn trẻ Do Thái, Ả Rập cùng các bạn trẻ khác, tôi mong các bạn nhớ rằng, ẩn sau con người chính trị, cố thủ tướng Israel Yitzhak Rabin là một người quy tắc, không ngừng tin tưởng rằng: Giấc mơ hòa bình cho vùng Trung Đông rồi sẽ được thực hiện! Tôi cầu chúc con người chính trị của ông Ngoại trở thành mẫu người gợi hứng hoạt động xây dựng hòa bình cho các nhà chính trị khác!

2. PHÚC CHO NGƯỜI XÂY DỰNG HÒA BÌNH.

Người an bình thực. Tự ổn định. Hãy bắt đầu thiết lập bình an trong mình, rồi bạn sẽ làm cho người khác an bình. Người chuộng hòa bình, lại hữu ích hơn người thông giỏi. Người đam mê biến thiện thành ác và dễ tin điều ác. Người công chính và an bình trở mọi cái thành thiện. Người bình an thực, không nghi ngờ người khác. Người hay phẫn ý đa nghi, hơi tí là ngờ vực. Họ không được yên, cũng không để người khác ở yên. Cái cần nín lại đem nói ra, cái nên làm thường lại bỏ. Chỉ chú trọng đến việc người, còn trách nhiệm mình lại chểnh mảng. Phải khắt khe với mình đã, rồi hãy khắt khe với người, thế mới hợp lý.

Chiến sĩ Hòa Bình. Bạn tô điểm và bào chữa lầm lỗi của bạn khéo lắm, nhưng bạn lại không muốn nghe người khác tự bào chữa. Đúng lý hơn, bạn phải thú nhận lỗi bạn và bào chữa cho người khác. Hãy nhịn người, nếu muốn người nhịn mình. Bạn thử xem, bạn còn xa bác ái và khiêm nhượng chừng nào! Vì người bác ái và khiêm nhường thực, có biết giận gắt ai đâu, họa may có thì lại giận gắt chính mình. Sống với những người từ tâm và thùy mị, thế có gì là đáng công. Tự nhiên ai cũng thích thế. Ai lại không thích sống yên hàn, không cảm tình với người hợp ý mình hơn? Nhưng sống bình an được với những người quạu cọ, trắc nết, phóng túng, với những người phản đối mình, cái đó cần có ân sủng vĩ đại, nhân đức anh hùng và đáng phục.

Muốn Hòa Bình phải nhẫn nhục. Nhiều người biết tự ổn và cũng sống an bình được với người khác. Cũng có người không biết tự ổn và chỉ quấy rầy người khác, chẳng ai chịu được họ, mà họ cũng không chịu được chính mình họ. Có người giữ được bình an và họ cố gắng đưa người khác về với an bình. Trót nghệ thuật bình an ở đời này, hệ tại biết nhẫn nhục chịu đựng, hơn là sống mà không phải trái ý. Càng biết chịu đựng, càng được bình an. Người như thế sẽ thắng được mình, làm chủ vũ trụ, trở nên bạn thiết Chúa GIÊSU KITÔ và được thiên đàng làm gia nghiệp. (“Gương Chúa GIÊSU”, Đa-Minh Thiện Bản, trang 129-131).

3. PHÚC CHO NGƯỜI XÂY DỰNG HÒA BÌNH.

Hòa-Bình là một trong những đặc tính của Thiên Chúa. Nơi Thiên Chúa chỉ có Hòa-Bình. Bởi vì, Hòa-Bình là Tình Yêu trong khi chiến tranh là hận thù. Satan đồng nghĩa với Hận-Thù. Thiên Chúa đồng nghĩa với Hòa-Bình. Không một ai có thể tự xưng mình là con Thiên Chúa, cũng như Thiên Chúa không hề nhận một người nào làm con, nếu người đó có tính dễ giận dễ hờn, hay cáu kỉnh, gây hấn và lúc nào cũng sẵn sàng nổi cơn lôi đình. Hơn thế nữa, một người không thể tự xưng là con Thiên Chúa nếu người đó không tìm cách xây dựng hòa bình, không làm dịu đi các cơn giông tố giận dữ hoặc xóa tan những bất chấp nghi kỵ do người khác gây nên để gieo rắc bất hòa.

Một người có tinh thần hòa bình luôn chiếu tỏa bình an ra chung quanh, ngay cả khi người đó giữ thinh lặng, không nói năng gì. Người có tinh thần hòa bình luôn luôn làm chủ chính mình, làm chủ tình thế. Người có tinh thần hòa bình giống y như một người mang ngọn đèn, chiếu tỏa ánh sáng và mang bình hương xông mùi thơm ngào ngạt. Người có tinh thần hòa bình còn giống như người luôn mang trong mình một chất lỏng có sức hút đi hoặc xóa tan những làn khói mù mịt bẩn thỉu, xông ra từ những con tim oán giận thù hằn. Người có tinh thần hòa bình tỏa ra sức mạnh, có thể thanh lọc những bầu khí ô nhiễm vì hận thù.

Thiên Chúa là Tình Yêu. Hòa-Bình là Tình-Yêu, nên ai có tinh thần hòa bình thì cũng ở trong tình yêu và được gọi là con Thiên Chúa. Trong bối cảnh này, Lời Kinh HÒA BÌNH của thánh Phanxicô thành Assisi, mang ý nghĩa đặc biệt. Xin ghi lại lời kinh qua bài thánh ca Kinh Hòa Bình của nhạc sĩ Kim Long:

Lạy Chúa Từ Nhân! Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng. Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu. Lạy Chúa, xin hãy dạy con: Tìm an ủi người hơn được người ủi an, Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Ôi Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con. Xin thương Ban xuống những ai lòng đầy thiện chí, ƠN AN BÌNH.

4. PHÚC CHO NGƯỜI XÂY DỰNG HÒA BÌNH.

Thiên Chúa là Tình Yêu. Tình Yêu đi đôi với lòng Nhân Hậu. Nhân Hậu là một trong những đặc tính chính yếu của Thiên Chúa. Thiên Chúa Nhân Lành chỉ làm điều thiện. Chương thứ nhất của sách Khởi Nguyên, tường thuật cuộc sáng tạo vũ trụ của Thiên Chúa. Người ta ghi nhận có một câu được lập lại sáu lần, mỗi lần sau một ngày sáng tạo: “Và Thiên Chúa thấy điều đó là tốt”. Ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi nơi điều tốt lành do chính Ngài thực hiện.

Thiên Chúa Nhân Lành chỉ có thể làm những điều tốt lành. Một khi đã làm xong điều tốt lành, Ngài sung sướng nghỉ ngơi nơi những điều tốt lành đó. Thiên Chúa hài lòng với ý nghĩ: Con cái loài người sẽ được vui hưởng những điều tốt lành do mình dựng nên cho chúng.

Con người cần nhắc nhở mình luôn luôn nhớ kỹ điều đó. “Sự dữ lẻn vào tạo vật, vào vũ trụ nhưng không do Thiên Chúa dựng nên. Sự dữ không đến từ Thiên Chúa. Từ Thiên Chúa, chỉ xuất phát những điều tốt lành”. Vì thế, khi có những điều dữ xảy nơi vũ trụ, giữa con cái loài người, con người không được phép trách cứ, đổ lỗi cho Thiên Chúa. Trái lại, chỉ nên kêu van sự trợ giúp của Thiên Chúa: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Nhưng CỨU chúng con cho khỏi SỰ DỮ”.

Để có thể hiểu và phân biệt: có phải thử thách này đến từ Thiên Chúa hoặc được Thiên Chúa cho phép xảy ra hay không, chúng ta cứ theo dấu hiệu này: Nếu trong thử thách, con người vẫn giữ nguyên tâm hồn bình an, thì đây là thử thách đến từ Thiên Chúa. Cũng thế, khi gặp thử thách khốn cùng, nhưng tâm hồn con người vẫn liên kết chặt chẽ với Thiên Chúa, vẫn kêu van Ngài trợ giúp, thì con người hiểu rằng: đây là thử thách Chúa cho phép xảy ra để thanh luyện hoặc thánh hóa con người. Trong cơn thử thách, con người không đánh mất HY VỌNG. Và nơi nào có HY VỌNG thì nơi đó có HÒA BÌNH. Và nơi nào có HÒA BÌNH thì nơi đó có THIÊN CHÚA. Vì THIÊN CHÚA là HY VỌNG, là HÒA BÌNH và là TÌNH YÊU.

Khi một thử thách đến từ Thiên Chúa thì thử thách đó không bao giờ tách lìa con người khỏi sự bình an. Hơn thế nữa, khi con người biết vui lòng chấp nhận thử thách, chẳng những con người được sống trong An Bình, mà còn được sống tràn trề trong các PHÚC LÀNH của Thiên Chúa nữa!

Trái lại, nếu trong cơn thử thách - hoặc điều khác thường hơn nữa - trong cái hoan lạc, thành công, chiến thắng và dư dật của cải vật chất, nhưng tâm hồn con người vẫn đầy tràn đắng cay, xôn xao áy náy và lìa xa Thiên Chúa, thì đây là dấu hiệu cho thấy: thử thách này do kẻ thù là Satan gây ra!. Bởi vì, từ nơi Thiên Chúa chỉ có thể phát ra AN BÌNH! “Vào ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đón kín, vì các ông sợ người Do Thái. Chúa GIÊSU hiện đến, đứng giữa các ông và nói: “CHÚC ANH EM ĐƯỢC BÌNH AN!” (Gioan 20,19).

HÒA BÌNH là món quà đến từ Thiên Chúa, là Hồng Ân của Thiên Chúa. Con người có bổn phận kêu xin, xây dựng và bảo tồn HÒA BÌNH.

5. PHÚC CHO NGƯỜI XÂY DỰNG HÒA BÌNH.

“Tôi thích nhìn tận mắt phản ứng của anh chị em, khi tôi bất ngờ dẫm lên chân anh chị em, xem thử anh chị em có luôn luôn giữ mãi được nụ cười không!”. Đó là lời đức cha Mamie, cựu giám mục Fribourg và Lausanne, nói đùa với các anh chị em thành viên phong trào Focolare - Tổ Ấm, tại trung tâm Montet của phong trào. Trung tâm Montet nằm phía trên hồ Neuchâtel, miền Tây Thụy Sĩ, giáp giới với nước Pháp. Đây là trung tâm gặp gỡ và huấn luyện - trong vòng một năm - 110 thành viên nam nữ trẻ của phong trào Tổ Ấm, tuổi từ 20-25. Ngoài ra còn có 40 thành viên thường trực của trung tâm. Tất cả làm thành một cộng đoàn gồm khoảng 150 người, thuộc đủ mọi chủng tộc, màu da và ngôn ngữ.

Nếu bạn có dịp đến viếng thăm trung tâm, hẳn bạn sẽ hết sức ngạc nhiên và thán phục trước một bầu khí an vui thái hòa, lịch thiệp và nhã nhặn của một cộng đoàn vừa quốc tế vừa trẻ trung. Khung cảnh của tòa nhà và các phòng ốc cũng được trang hoàng thật trang nhã và tươi mát. Người khách thường thắc mắc tự hỏi: Làm thế nào để giữ vững được hòa khí và tinh thần kính trọng lẫn nhau, khi mà bạn luôn sống sát cạnh người khác, gần như là 24 tiếng trên 24 tiếng, trong vòng một năm trời như thế???

Anh Jean-Paul Brotel, thành viên của phong trào Focolare - Tổ Ấm, từ năm 1977 đến nay, giải thích lý do đầu tiên: “Chính Chúa GIÊSU, Đấng hiện diện giữa chúng tôi, giúp chúng tôi thực hiện được cuộc sống chung trong an bình và hòa hợp”. Và kinh nghiệm một cuộc sống chung hiệp nhất như thế, không thể một sớm một chiều bị xóa mờ được. Do đó, có rất nhiều người trẻ thường trở lại viếng thăm trung tâm nhiều lần sau thời gian thụ huấn một năm tại đây. Cũng có người tình nguyện ở lại làm nhân viên thường trực của trung tâm.

Một người trẻ Pháp hiện là bác sĩ toàn khoa làm việc tại Mễ Tây Cơ nói về trung tâm Montet: “Thời gian tôi trải qua tại trung tâm ghi khắc trong tôi như một điểm qui chiếu”. Một người trẻ Đức nói: “Tại Montet tôi học cách thức yêu thương bằng ý chí. Ban đầu, đó là điều không dễ dàng và tự nhiên. Nhưng nhờ tập luyện, tôi có thể yêu thương người khác cách dễ dàng và hết sức tự nhiên.

Cô Marie-Thérèse Vuignier, phó giám đốc điều hành trung tâm Montet và là thành viên của phong trào Tổ Ấm từ 20 năm nay, cho biết lý do thứ hai giải thích sự thành công của trung tâm: “Đức MARIA là mẫu gương cho mọi khía cạnh cuộc sống của chúng tôi”. Chính Mẹ Maria dạy chúng tôi biết chấp nhận, phó thác hoàn toàn cho Chúa, biết yêu thương người khác qua những cử chỉ nhỏ nhặt nhất, cũng như biết khước từ những tư tưởng riêng tư và biết đứng vững dưới chân thánh giá, trong những lúc gặp khó khăn thử thách.. Anh Alessandro, một thành viên người Ý nói: “Lúc đầu, mối quan hệ của tôi với Trinh Nữ MARIA hoàn toàn nằm trên phương diện lý thuyết. Nhưng khi nhìn thấy những hoạt động diễn ra tại trung tâm Montet, tôi hiểu Đức MARIA là ai”.

Giống như nhiều thành viên thực thụ khác, anh Alessandro dấn thân hoạt động hoàn toàn cho Thiên Chúa, trong phong trào Tổ Ấm và quyết định ở độc thân. Cuộc sống độc thân mà anh Alessandro mơ ước là một cuộc sống đồng trinh, quân bình và thoải mái: sống độc thân để được tự do yêu thương người khác nhiều hơn. Một thành viên người Đức nói: “Nơi môi trường xã hội tôi sống, đa số người dân không bao giờ bước chân vào nhà thờ. Tôi cảm thấy mình được thúc đẩy sống và làm chứng cho những người này, để họ biết rằng: có một Thiên Chúa yêu thương họ.

Sau cùng, và là lý do thứ Ba giải thích cho bầu khí sống chung hòa hợp ở trung tâm Montet của phong trào Tổ Ấm. Mỗi ngày, cứ vào lúc đúng 12 giờ trưa, tất cả 110 thành viên trẻ đang được thụ huấn, nam cũng như nữ, tất cả đều tụ họp lại để cầu nguyện cho HÒA BÌNH. Trên con đường bước theo chân Chúa KITÔ, dưới sự dìu dắt trìu mến của Trinh Nữ Rất Thánh Maria, bất cứ cộng đoàn nào sống tình huynh đệ hiệp nhất và biết vâng lời, thì nơi đó có HÒA BÌNH. Và từ những tâm lòng có HÒA BÌNH thực sự sẽ mang HÒA BÌNH đến cho thế giới. Và đây là một trong những mục tiêu mà phong trào Tổ Ấm nhằm đạt đến, khi đào tạo tinh thần cho các thành viên của mình..

6. ĐỨC GIÊSU KITÔ: HOÀNG-TỬ HÒA-BÌNH TRINH NỮ MARIA: NỮ-VƯƠNG HÒA-BÌNH.

Tiên tri Isaia loan báo về cuộc xuất hiện của Chúa GIÊSU KITÔ như sau. Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết. Chúa đã làm cho dân tộc nên vĩ đại, há chẳng làm vĩ đại niềm vui sao? .. Bởi lẽ, một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng tôi, và một Người Con đã được Ban tặng cho chúng tôi. Người đã gánh nhận vương quyền trên vai, và thiên hạ sẽ gọi tên Người là Cố-Vấn kỳ-diệu, Thiên-Chúa huy-hoàng, Người-Cha muôn-thưở, Vị-Vua Thái-Bình. Người sẽ mở rộng vương quyền, và cảnh thái-bình sẽ vô tận. Người sẽ ngự trên ngai vàng của Đa-vít và trong vương quốc Người, để củng cố và tăng cường trong sự công minh chính trực, ngay tự bấy giờ và cho đến muôn đời. Lòng ghen yêu của Chúa Thiên Binh sẽ thực thi điều đó” (Isaia 9,2-4;6-7).

Thiên Thần Chúa bảo các mục tử: Anh em đừng sợ, đây tôi mang đến cho anh em một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Đức KITÔ, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho anh em trong thành của vua Đa-vít.. Và bỗng chốc, cùng với Thiên Thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: VINH DANH THIÊN CHÚA TRÊN CÁC TẦNG TRỜI VÀ BÌNH AN DƯỚI THẾ CHO NGƯỜI THIỆN TÂM. (Lc 2,10-14).

Chúa GIÊSU KITÔ là Hoàng-Tử và là Vị-Vua của HÒA BÌNH. Trong đêm giáng trần, Người đem Hòa Bình đến cho toàn nhân loại, đặc biệt cho những người có tâm lòng ngay thẳng. Từ đó Chúa GIÊSU luôn luôn xuất hiện dưới hình ảnh của một Vị-Vua Hòa-Bình. Ngài loan báo Hòa-Bình, xây dựng Hòa-Bình và trao Ban Hòa-Bình, cho cả những kẻ không tiếp nhận Ngài và là đối thủ của Ngài. Lời nói, cung cách, giáo huấn và hoạt động của Ngài, nhất nhất đều biểu lộ một bậc đại nhân luôn an hòa thư thái. Chúa GIÊSU tỏ lộ nét thư thái chẳng những trong lúc bình thường, nhưng nhất là, trong những hoàn cảnh đau thương và ô nhục nhất. Ngài luôn luôn tự chủ và làm chủ tình thế.

Sau Chúa GIÊSU, Vị-Vua Hòa-Bình, là Đức Trinh Nữ Maria, Nữ-Vương Hòa-Bình. Bởi vì, Đức Maria là Mẹ của Chúa GIÊSU, Vị-Vua Hòa-Bình. Hàng năm, Giáo Hội dành ngày đầu năm dương lịch, mồng một tháng Giêng, để long trọng mừng kính tước hiệu MARIA, MẸ THIÊN CHÚA. Ngày ấy cũng là ngày THẾ GIỚI HÒA BÌNH. Hay đúng hơn, đây là ngày toàn thế giới khẩn cầu Thiên Chúa trao Ban Hòa Bình cho nhân loại. Trong sứ điệp ngày 1.1.1986, gởi các thành viên Phong Trào Linh Mục Thánh Mẫu, Đức Mẹ mời gọi mọi người hãy sống và thực thi Hòa Bình. Đức Mẹ nói:

Mẹ là Nữ Vương Hòa Bình. Trong ngày Lễ Giáng Sinh, Mẹ trao Ban cho các con Đấng là Hòa Bình của các con, Chúa GIÊSU Con Mẹ. Chúa GIÊSU đưa các con đến giao hòa với Thiên Chúa và như thế, Ngài mở ra cho các con con đường cứu rỗi và hạnh phúc thật. Chúa GIÊSU cũng giao hòa các con với chính mình, và như thế, Ngài mở ra con đường hòa bình nơi tâm lòng các con. Hòa Bình chỉ có thể nẩy sinh từ ơn thánh, ơn thánh do chính Chúa GIÊSU mang lại từ cuộc sinh ra, cuộc sống và cái chết khổ nhục của Ngài trên Thánh Giá.

Nếu các con sống trong Ơn Thánh Chúa thì các con cũng sống trong an bình nơi tâm lòng. Ích kỷ, thù hận, nhơ nhớp và bất cứ tội lỗi nào khác, đều tước đoạt bình an khỏi con tim các con. Chúa GIÊSU giao hòa các con với mọi người và vạch cho các con con đường tiến đến tình huynh đệ đích thực. Mỗi một người nào khác đều phải được cảm thấy họ là anh em của các con. Mẹ xin tất cả các con hãy sống trong niềm hiệp thông huynh đệ đích thực và trong tình yêu hỗ tương, không phân biệt chủng tộc, ngôn ngữ và tôn giáo. Tất cả các con là con cái Thiên Chúa, được Chúa GIÊSU cứu chuộc và được giao phó cho tình mẫu tử thiêng liêng của Mẹ, vì thế, tất cả các con phải sống như những anh em đích thực với nhau. Chỉ khi nào các con sống tình huynh đệ đích thực với nhau, lúc đó Hòa Bình mới đến với các con.

Thế nhưng Hòa Bình ngày nay mỗi lúc một bị đe dọa hơn. Loài người ương ngạnh chối bỏ Thiên Chúa; là nạn nhân của tội lỗi và của nhơ nhớp; không còn khả năng hiểu nhau và yêu thương nhau, do đó, nhân quyền bị chà đạp, người nghèo và kẻ đói khát bị bỏ rơi, làn sóng đàn áp và bất công dâng cao, bạo lực nổ tung và chiến tranh lan rộng. Trong hoàn cảnh này, Mẹ mời gọi các con hãy phó dâng các con cho Mẹ là NỮ VƯƠNG HÒA BÌNH. Hãy hoán cải và trở về cùng Thiên Chúa bằng đời sống cầu nguyện và thống hối, hãm mình và chay tịnh. Thời gian Thiên Chúa chờ đợi loài người hoán cải gần như sắp mãn. Vì thế, với mối bận tâm sâu xa, Mẹ gởi đến các con sứ điệp này. Nếu các con nghe lời Mẹ thì các con sẽ được cứu thoát. Nếu các con thực thi giáo huấn Mẹ thì các con sẽ được BÌNH AN trong lòng. Các con hãy phổ biến sứ điệp ra khắp nơi và hãy góp phần chuẩn bị mọi người tiến vào thời điểm của HY VỌNG và HÒA BÌNH ...
Hòa Bình là ước vọng thâm sâu nhất của mỗi người. Hòa Bình là phúc lành của Thiên Chúa. Hãy sống và thực thi HÒA BÌNH.

Phúc thay ai xây dựng Hòa-Bình vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa (Mt 5,9).

Xin hãy đến, lạy Thánh Thần Tình Yêu và An Bình.